1. Các loại giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân
- Giấy chứng nhận kết hôn.
Giấy chứng nhận kết hôn là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho hai bên nam, nữ khi đăng ký kết hôn; nội dung Giấy chứng nhận kết hôn bao gồm các thông tin cơ bản: Họ, chữ đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư trú; thông tin về giấy tờ chứng minh nhân thân của hai bên nam, nữ; ngày, tháng, năm đăng ký kết hôn; chữ ký hoặc điểm chỉ của hai bên nam, nữ và xác nhận của cơ quan đăng ký hộ tịch (khoản 7 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014).
- Đăng ký lại việc kết hôn
Căn cứ Điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch thì việc kết hôn đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 01 tháng 01 năm 2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại. Người yêu cầu đăng ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử có trách nhiệm nộp đầy đủ bản sao giấy tờ, tài liệu có nội dung liên quan đến việc đăng ký lại. Việc đăng ký lại khai sinh, kết hôn chỉ được thực hiện nếu người yêu cầu đăng ký còn sống vào thời điểm tiếp nhận hồ sơ.
- Bản sao trích lục kết hôn
Trong trường hợp không còn bản chính giấy chứng nhận đăng ký kết hôn thì xem xét đến trích kết hôn.
Khoản 9 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định:Trích lục hộ tịch là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp nhằm chứng minh sự kiện hộ tịch của cá nhân đã đăng ký tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Bản chính trích lục hộ tịch được cấp ngay sau khi sự kiện hộ tịch được đăng ký. Bản sao trích lục hộ tịch bao gồm bản sao trích lục hộ tịch được cấp từ Cơ sở dữ liệu hộ tịch và bản sao trích lục hộ tịch được chứng thực từ bản chính.
Theo quy định tại Điều 62 Luật Hộ tịch năm 2014 thì khi đăng ký hộ tịch, cơ quan đăng ký hộ tịch cấp 01 bản chính trích lục hộ tịch cho người yêu cầu đăng ký hộ tịch, trừ việc đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn. Bản chính trích lục hộ tịch được chứng thực bản sao.
Như vậy, kêt hôn không được cấp bản chính trích lục. Điều 63 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định cá nhân không phụ thuộc vào nơi cư trú có quyền yêu cầu Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch cấp bản sao trích lục hộ tịch về sự kiện hộ tịch của mình đã được đăng ký.
- Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
Điều 21, 22, 23 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP về cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; Điều 12, Điều 33 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP.
Trong đó cần lưu ý rằng, hôn nhân thực tế cũng được cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
- Đơn xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã (nếu người có quyền yêu cầu đã chết)
Theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, việc đăng ký lại kết hôn chỉ được thực hiện nếu người yêu cầu đăng ký còn sống vào thời điểm tiếp nhận hồ sơ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Hộ tịch năm 2016 thì trường hợp kết hôn, nhận cha, mẹ, con, các bên phải trực tiếp thực hiện tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Đối với các việc đăng ký hộ tịch khác hoặc cấp bản sao trích lục hộ tịch thì người có yêu cầu trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết việc ủy quyền.
Điều 2 Thông tư số 04/2020/TT-BTP quy định: Người yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch, cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, yêu cầu đăng ký các việc hộ tịch theo quy định tại Điều 3 Luật hộ tịch được uỷ quyền cho người khác thực hiện thay; trừ trường hợp đăng ký kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con thì không được ủy quyền cho người khác thực hiện, nhưng một bên có thể trực tiếp nộp hồ sơ tại cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền, không phải có văn bản ủy quyền của bên còn lại.
Theo các quy định trên, người có quyền yêu cầu phải tự mình thực hiện hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện các việc liên quan đến hộ tịch (trừ đăng ký kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con thì không được ủy quyền). Nghĩa là, người đã chết thì không thể thực hiện đăng ký lại việc kết hôn hoặc đề nghị cấp bản sao trích lục kết hôn.
Luật Hộ tịch không quy định về xử lý các việc hộ tịch liên quan đến người đã chết.
Điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị định 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Cư trú quy định giấy tờ, tài liệu để chứng minh quan hệ vợ, chồng bao gồm: Giấy chứng nhận kết hôn; giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã nơi cư trú.
Như vậy, đối với trường hợp người đã chết thì áp dụng đến giải pháp là xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã nơi cư trú.
2. Vấn đề trao đổi
Trong các loại giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân nêu trên, đối với trường hợp bản sao trích lục kết hôn (kết hôn không được cấp bản chính trích lục).
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch quy định: Bản sao được cấp từ sổ gốc có giá trị sử dụng thay cho bản chính trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Theo quy định tại Điều 40, 41 Luật Công chứng năm 2014 về thủ tục chung công chứng hợp đồng, giao dịch thì “Công chứng viên yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này để đối chiếu trước khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch”.
Như vậy, việc kết hôn không được cấp trích lục bản chính. Mặc dù Nghị định số 23/2015/NĐ-CP có quy định bản sao được cấp từ sổ gốc có giá trị sử dụng thay cho bản chính trong các giao dịch nhưng khi sử dụng bản sao trích lục kết hôn thì vẫn mâu thuẫn với quy định của Luật Công chứng về xuất trình bản chính để đối chiếu trước khi công chứng viên ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch.
Từ thực tế trên, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, hoàn thiện để thống nhất các quy định của pháp luật./.