Tìm kiếm tin tức

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Quy định về đăng ký kết hôn qua các thời kỳ và một số vấn đề áp dụng pháp luật hiện nay
Ngày cập nhật 14/06/2022

1. Quy định pháp luật hôn nhân và gia đình về đăng ký kết hôn qua các thời kỳ

a) Sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1950

 Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 quy định về một số vấn đề hôn nhân. Sắc lệnh chưa đề cập đến chế độ một vợ một chồng và việc đăng ký kết hôn. Ngày 17/11/1950, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 159/SL ngày quy định về vấn đề ly hôn.

b) Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

Luật  năm 1959 đã ghi nhận chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng (Điều 1) và cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác (Điều 5).

Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: Việc kết hôn phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật.

Như vậy, Luật năm 1959 đã yêu cầu việc kết hôn phải được ghi vào sổ kết hôn. Cần lưu ý rằng, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 có hiệu lực ngày 13/01/1960 ở miền Bắc. Đến ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76-CP về việc hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất cả nước thì Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 có hiệu lực ở miền Nam (kể từ ngày 25/3/1977). 

c) Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 tiếp tục khằng định chế độ  một vợ một chồng và quy định: Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở ngoài nước do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý (Điều 8).

Khoản 2 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình quy định trường hợp kết hôn vi phạm Điều 8: Điều 8 quy định: "Việc kết hôn do UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn ghi nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định..." Trong thực tế vẫn có không ít trường hợp kết hôn không có đăng ký. Việc này tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật, nếu việc kết hôn không trái với các điều 5, 6, 7. Trong những trường hợp này, nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn, Toà án không huỷ việc kết hôn theo Điều 9 mà xử như việc xin ly hôn theo Điều 40”.

Ngoài ra, cần lưu ý tại điểm c khoản 1 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP có quy định trường hợp đang có vợ, có chồng mà lấy người khác: Đối với hôn nhân vi phạm một trong các trường hợp của Điều 7 mà có người yêu cầu huỷ việc kết hôn thì nói chung Toà án phải xử huỷ việc kết hôn. Riêng đối với trường hợp đang có vợ, có chồng mà lấy người khác thì cần chú ý:

- Đối với những cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư của Toà án nhân dân tối cao số 60/TATC ngày 22-2-1978 hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác.

- Cá biệt nếu có trường hợp vợ chồng chưa ly hôn xong nhưng một bên đã đi lấy người khác. Nếu xét thấy hôn nhân trước trong thực tế đã không còn tồn tại, hai bên không thể đoàn tụ được nữa mà một bên hoặc hai bên đã xin ly hôn thì mặc dầu hôn nhân sau là không hợp pháp, nhưng không máy móc huỷ việc kết hôn sau mà có thể chỉ xử ly hôn đối với hôn nhân trước.

Hậu quả của việc huỷ kết hôn trái pháp luật là hai bên không được duy trì quan hệ vợ chồng nữa, tài sản riêng của ai thì người đó lấy về và tài sản chung được chia theo sự đóng góp của mỗi bên. Trong trường hợp kết hôn trái pháp luật là do một bên bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối thì người bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối có thể yêu cầu Toà án giải quyết quyền lợi của họ (chia tài sản chung, cấp dưỡng...) như khi ly hôn.

Thông tư số 60/TATC ngày 22-2-1978 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội đã có vợ có chồng ở trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ lấy chồng khác. Tại khoản 3 mục  I về phương hướng chung nêu “Về mặt thủ tục, khi giải quyết việc cắt đứt quan hệ vợ chồng giữa người chồng và người vợ lấy sau thì nói chung cần áp dụng thủ tục ly hôn. Trừ trường hợp đặc biệt nói ở phần sau mới đặt vấn đề tiêu hôn.“

Trong giai đoạn này, mặc dù Luật khẳng định chế độ một vợ một chồng nhưng do hoàn cảnh lịch sử, vẫn thừa nhận những trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc. Đồng thời, mặc dù khẳng định việc kết hôn phải được ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định và mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý nhưng để phù hợp với tình hình thực tế lúc bấy giờ thì việc kết hôn không có đăng ký vẫn được gián tiếp thừa nhận khi quy định nếu có xin ly hôn thì xử như việc xin ly hôn theo Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP.

d) Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Điều 11 Luật Hôn nhân và gia định năm 2000 quy định:  Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Như vậy, từ ngày 01/01/2001 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thi hành), việc kết hôn phải được đăng ký theo đúng quy định mới có giá trị pháp lý.

Theo khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10; Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10:

- Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Những trường hợp này được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận tiện cho đăng ký kết hôn; việc đăng ký kết hôn không bị hạn chế về thời gian.

Trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn. Ngày công nhận hôn nhân có hiệu lực phải được ghi rõ trong Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn .

- Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực (01/01/2001) cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.

Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.

+ Trường hợp đăng ký kết hôn trong thời hạn từ 01/01/2001 đến 01/01/2003 thì quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ vợ chồng hoặc chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế.

+ Kể từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì họ không được công nhận là vợ chồng.

+ Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ chỉ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn.

- Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ những trường hợp nêu trên, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

đ) Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Điều 9 Luật Hôn nhân và gia định năm 2014 về đăng ký kết hôn nêu rõ: Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.

Như vậy, từ ngày 01/01/2015 (ngày Luật Hôn nhân và gia định năm 2014 có hiệu lực thi hành) thì việc kết hôn phải được đăng ký theo đúng quy định mới có giá trị pháp lý.

2. Một số vấn đề về hôn nhân thực tế và áp dụng pháp luật hiện nay

- Mặc dù hiện nay đang thực hiện Luật Hôn nhân và gia định năm 2014, theo đó, việc kết hôn phải được đăng ký theo quy định thì mới có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia định năm 2014  quy định điều khoản chuyển tiếp: Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề hôn nhân thực tế vẫn cần được xác định chính xác theo quy định pháp luật trước đây. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xác định thừa kế, tài sản của vợ chồng.

Theo quy định tại Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10, hiện nay hôn nhân thực tế vẫn còn đối với những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn.

- Tại điểm a khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 có quy định “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”. Mặt khác, theo tinh thần của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (có hiệu lực từ ngày 13/01/1960 tại miền Bắc và từ ngày 25/3/1977 tại miền Nam) thì pháp luật ghi nhận chế độ một vợ một chồng và cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác. Do đó, trước thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực như trên thì vẫn được công nhận nhiều vợ; hoặc đối với trường hợp cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật  thì những người vợ đều được công nhận. Như vậy, hiện nay vẫn còn có những trường hợp có khả năng có 2 vợ/ chồng trong các trường hợp trên.

- Việc xác định quan hệ vợ chồng trong trường hợp một người có 2 vợ ở hai thời điểm khác nhau sau ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực (từ ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; từ ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam) và trước ngày 03/01/1987 và đều không đăng ký kết hôn thì xác định như thế nào?

Ví dụ: Năm 1980 ông A và bà B chung sống với nhau như vợ chồng, có tổ chức lễ cưới, không đăng đăng ký kết hôn, có 2 con chung. Năm 1984, ông A bỏ đi, mang theo một người con và chung sống với bà C đến lúc chết, gia đình ông A biết và chấp nhận. Bà B cũng chung sống với ông D và có con chung.

Điểm d khoản 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;

- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;

- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

Chiếu theo quy định nêu trên, cả hai bà vợ của ông A là bà B và bà C đều được xem là hôn nhân thực tế. Tuy nhiên, theo tinh thần của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì khẳng định chế độ một vợ một chồng. Vậy trong trường hợp này phải giải quyết như thế nào?

Vấn đề này cần được hướng dẫn cụ thể để áp dụng trong trường hợp liên quan, nhất là việc xác định người thừa kế.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 19.727.894
Lượt truy cập hiện tại 8.075