Tìm kiếm tin tức
Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
KỸ NĂNG XEM XÉT ĐÁNH GIÁ TÍNH KỊP THỜI, ĐẦY ĐỦ CỦA VIỆC BAN HÀNH VĂN BẢN QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ TÍNH HỢP HIẾN, HỢP PHÁP, TÍNH THỐNG NHẤT, TÍNH ĐỒNG BỘ, TÍNH KHẢ THI CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Ngày cập nhật 18/10/2021
  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Pháp luật là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để thực hiện mục tiêu “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch" được nêu tại Nghị quyết số 48- NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thông pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng năm 2020 thì các cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ và khả thi của văn bản. Yêu cầu này được thể hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành như: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015; Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật... Đặc biệt, hoạt động đánh giá tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành quy định chi tiết, xem xét, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khả thi của văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động theo dõi thi hành pháp luật được quy định tại Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi thi hành pháp luật, Nghị định số 32/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP. Theo đó, các Bộ cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên cơ sở xem xét, đánh giá tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm: tính kịp thời, đầy đủ của việc văn bản quy định chi tiết; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật[1].

 


[1] Điều 8 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012

 

II. TÍNH KỊP THỜI, ĐẦY ĐỦ CỦA VĂN BẢN QUY ĐỊNH CHI TIẾT

2.1. Yêu cầu của việc ban hành văn bản quy định chi tiết

Về nguyên tắc, văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 11 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 cũng có quy định về việc cơ quan ban hành có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết trong trường hợp “văn bản có điều, khoản, điểm mà nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật và những nội dung khác cần quy định chi tiết", Điều này có thể được hiểu là việc giao ban hành văn bản quy định chi tiết phải có sự cân nhắc về sự cần thiết trên cơ sở xem xét tính chất của nội dung cần giao quy định chi tiết. Theo đó, văn bản quy định chi tiết chính là văn bản có nội dung quy định cụ thể các nội dung được giao. Việc ban hành văn bản quy định chi tiết cần bảo đảm các yêu cầu cơ bản theo quy định tại 11 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, cụ thể:

Thứ nhất, cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết phải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thẩm quyền về nội dung theo và thẩm quyền về hình thức) theo quy định. Đồng thời, văn bản quy định chi tiết chỉ được quy định nội dung được giao và không được quy định lặp lại nội dung của văn bản được quy định chi tiết.

Thứ hai, cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được ủy quyền tiếp. Dự thảo văn bản quy định chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự án luật, pháp lệnh và phải có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết.

Thứ ba, trường hợp một cơ quan được giao quy định chi tiết nhiều nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật thì ban hành một văn bản để quy định chi tiết các nội dung đó, trừ trường hợp cần phải quy định, trong các văn bản khác nhau. Trường hợp một cơ quan được giao quy định chi tiết các nội dung của nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau thì có thể ban hành một văn bản để quy định chi tiết.

2.2. Bảo đảm tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định

Tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết thể hiện ở các khía cạnh như:

- Về thời gian ban hành: Văn bản quy định chi tiết được ban hành phải có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết; Dự thảo văn bản quy định chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự án luật, pháp lệnh. Đây chính là cơ sở quan trọng để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, đặc biệt yêu cầu văn bản quy định chi tiết phải có hiệu lực đồng thời với văn bản được quy định chi tiết sẽ khắc phục tình trạng luật “chờ nghị định, thông tư như trước đây. Mặt khác, yêu cầu về tính kịp thời của việc ban hành văn bản quy định chi tiết cũng bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định tại khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực", tránh khoảng trống pháp luật, lúng túng trong việc thực hiện, ví dụ: Văn bản quy định chi tiết luật cũ đã hết hiệu lực nhưng văn bản quy định chi tiết của luật mới chưa có hiệu lực dẫn tới lúng túng, khoảng trống và khó khăn trong thực hiện, áp dụng pháp luật.

- Về nội dung của văn bản: Văn bản quy định chi tiết chỉ được quy định nội dung được giao, không quy định lặp lại nội dung của của văn bản được quy định chi tiết, quy định đầy đủ các nội dung được giao quy định chi tiết. Tính đầy đủ của văn bản quy định chi tiết hiểu một cách đơn giản chính là việc quy định “vừa đủ", không mở rộng, vượt quá phạm vi được giao, không trùng lặp các quy định đã có, hoặc quy định thiếu các vấn đề được giao quy định chi tiết, góp phần bảo đảm tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Trên cơ sở đó, tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật được đánh giá trên cơ sở xem xét những nội dung cơ bản[1] sau:

+ Trên cơ sở kết quả rà soát luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ (sau đây gọi là văn bản được quy định chi tiết), hoàn thành việc xác định nội dung được giao quy định chi tiết;

+ Lập Danh mục văn bản quy định chi tiết gồm nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư, thông tư liên tịch do Bộ, cơ quan ngang Bộ chủ trì soạn thảo, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là văn bản quy định chi tiết). Trong đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo lập danh mục văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được giao ban hành. Danh mục văn bản quy định chi tiết do Thủ tướng Chính phủ ban hành gồm nghị định của Chính phủ, nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, trong đó nêu rõ tên văn bản, cơ quan ban hành văn bản, căn cứ ban hành, nội dung chính của văn bản, dự kiến thời gian ban hành. Bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có nội dung được giao quy định chi tiết có trách nhiệm: Đề xuất văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, trong đó nêu rõ tên văn bản được quy định chi tiết, điều, khoản, điểm được giao quy định chi tiết; dự kiến tên văn bản quy định chi tiết, cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp, thời hạn trình ban hành; Tập hợp các nội dung luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước giao cho địa phương quy định chi tiết; Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội được thông qua; trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ký ban hành, bộ, cơ quan ngang bộ gửi danh Mục văn bản quy định chi tiết đến Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp có trách nhiệm: Tiếp nhận, tổng hợp các đề xuất để lập Danh mục văn bản quy định chi tiết, gửi lấy ý kiến các bộ, cơ quan ngang bộ được dự kiến phân công soạn thảo; chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ lập và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định danh Mục văn bản quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; thông báo bằng văn bản cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về Danh mục các nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết. Sở Tư pháp có trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và các tổ chức có liên quan lập và trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định trình Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định Danh mục nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; chủ trì, phối hợp với Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan, tổ chức có liên quan lập và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh danh Mục quyết định của Ủy ban nhân dân quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

+ Ban hành kế hoạch, phân công cơ quan, đơn vị chủ trì, cơ quan, đơn vị phối hợp soạn thảo văn bản quy định chi tiết trong thời hạn chậm nhất là 15 ngày kế từ ngày Danh mục văn bản quy định chi tiết được ban hành;

+ Văn bản quy định chi tiết được ban hành theo đúng tiến độ được phê duyệt và quy định đầy đủ nội dung được giao quy định chi tiết đã được xác định trong Danh mục văn bản quy định chi tiết.

Các hoạt động cụ thể khi thực hiện xem xét, đánh giá tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết bao gồm:

- Đánh giá tính kịp thời, đầy đủ của việc rà soát, lập dự kiến danh mục, việc ban hành kế hoạch xây dựng văn bản quy định chi tiết do Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành;

- Đánh giá tính đầy đủ của văn bản quy định chi tiết so với số nội dung được giao quy định chi tiết tại văn bản được quy định chi tiết;

- Đánh giá tiến độ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết trên cơ sở so sánh với thời điểm dự kiến cần phải ban hành theo kế hoạch;

- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng, tiến độ xây dựng văn bản quy định chi tiết;

Như vậy tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết phải được xem xét, đánh giá ngay từ những công đoạn đầu tiên trong quá trình xây dựng văn bản quy định chi tiết, thậm chí phải xác định từ khi xây dựng văn bản được quy định chi tiết, xác định rõ nội dung cần được giao quy định chi tiết, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết... Tính kịp thời, đẩy đủ phải được quán triệt, thể hiện xuyên suốt trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết.

III. TÍNH HỢP HIẾN, HỢP PHÁP CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp là nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được đề cập đầu tiên tại khoản 1 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Yêu cầu về tính hợp hiến, tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật được xem xét, đánh giá toàn diện trên cơ sở đối chiếu với các văn bản quy phạm pháp luật khác trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là các quy định mang tính nền tảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ barn của công dân; tổ chức bộ máy nhà nước: kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học và môi trường... tại Hiến pháp. Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý". Theo đó, Hiến pháp là căn cứ cho tất cả các ngành luật khác thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, để bảo đảm nguyên tắc Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có tính pháp lý cao nhất thì mọi văn bản được ban hành phải hợp hiến, được thể hiện ở việc các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không được trái với các quy định cụ thể, các nguyên tắc cơ bản, tinh thần của Hiến pháp.

Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan ban hành phải tuân thủ thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật, hay nói cách khác là phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp trên đã ban hành. Theo đó, để xem xét, đánh giá tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật phải dựa trên các tiêu chí như được ban hành đúng thẩm quyền, đúng nội dung, đúng trình tự, thủ tục ban hành và phải phù hợp với quy định về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật. Điều này đồng nghĩa với việc văn bản được ban hành nếu không bảo đảm các tiêu chí về tính hợp pháp thì được coi là văn bản không phù hợp quy định pháp luật. Cụ thể:

(i) Văn bản QPPL phải được ban hành đúng thẩm quyền

Thẩm quyền ban hành văn bản QPPL bao gồm thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung. Thẩm quyền này được quy định trong các văn bản QPPL như: Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020; Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL; Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP; các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước, các chủ thể có thẩm quyền (các luật về tổ chức bộ máy nhà nước) và các văn bản pháp luật chuyên ngành. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá tính hợp pháp của văn bản QPPL, yêu cầu về thẩm quyền ban hành văn bản QPPL được xem xét ở phương diện đúng thẩm quyền về hình thức và đúng thẩm quyền về nội dung: Thẩm quyền hình thức được hiểu là các chủ thể ban hành văn bản QPPL đúng tên gọi, loại văn bản trong hệ thống pháp luật theo quy định. Thẩm quyền về hình thức của các chủ thể trong hoạt động ban hành văn bản QPPL được quy định tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020), cụ thể như: Quốc hội ban hành Bộ luật, luật; Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh, nghị quyết, nghị quyết liên tịch. giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch nước ban hành Lệnh, quyết định; Chính phủ ban hành Nghị định, nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành Thông tư; Hội đồng nhân dân các cấp ban hành Nghị quyết; Ủy ban nhân dân các cấp ban hành Quyết định;... Thẩm quyền về nội dung là giới hạn về quyền lực của các chủ thể trong quá trình giải quyết công việc do pháp luật quy định. Khi thực hiện quản lý nhà nước trong các lĩnh vực được phân công, phân cấp, các cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền của mình, được quy định cụ một số đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014; Luật tổ chức Chính phủ 2015; Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015; các quy định liên quan tới chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước. Ngoài ra, thẩm quyền ban hành về nội dung đối với các chủ thể còn được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên ngành có hiệu lực pháp lý cao hơn, bao gồm cả hình thức ủy quyền lập pháp (ban hành văn bản quy định chi tiết). Khi đánh giá tính hợp pháp về thẩm quyền về nội dung, cần xem xét các chủ thể ban hành có được quy định về vấn đề được nêu tại văn bản hay không, giới hạn quy định (ngoại lệ - nếu có), đặc biệt là các giới hạn mang tính nghiêm cấm? Ví dụ: Giới hạn thẩm quyền ban hành quy định về thủ tục hành chính được thể hiện rõ ràng ở quy định về hành vi bị nghiêm cấm tại khoản 4 Điều 14 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (được sửa đổi, bổ sung theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020)Quy định thủ tục hành chính trong thông tư, thông tư liên tịch, quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được luật, nghị quyết của Quốc hội giao hoặc trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật này;

(ii) Văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp về nội dung: Nội dung hợp pháp thể hiện ở việc văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên. Tiêu chí này đặt ra nguyên tắc, văn bản QPPL được ban hành phải phù hợp với văn bản QPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn, văn bản của địa phương ban hành phải phù hợp và thống nhất với văn bản do Trung ương ban hành. Ví dụ, để đánh giá tính hợp pháp văn bản QPPL do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành cần xem xét, đánh giá sự phù hợp của văn bản đó trong mối liên hệ với các văn bản QPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn đã ban hành, đang có hiệu lực như: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân tỉnh để đảm bảo tính hợp pháp của văn bản.

Ngoài ra, tính hợp pháp về nội dung của văn bản cũng được xem xét ở việc văn bản QPPL trong nước (trừ Hiến pháp) phải phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

(iii) Văn bản QPPL được ban hành đúng trình tự, thủ tục: Văn bản QPPL có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do vậy, yêu cầu trình tự, thủ tục ban hành cần phải được tuân thủ chặt chẽ, Điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL 2015 đã quy định rõ Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản có chứa quy phạm, pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật". So với Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008, Luật ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2020 đã quy định rõ, chặt chẽ hơn quy trình, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt, Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015 đã bổ sung quy trình hoạch định, phân tích, xây dựng chính sách tách bạch riêng với quy trình soạn thảo văn bản.

(iv) Văn bản QPPL được ban hành tuân theo quy định của pháp luật về thể thức, kỹ thuật trình bày: Khi đánh giá về tính hợp pháp của văn bản QPPL, một trong những tiêu chí đặt ra là văn bản đó phải ban hành theo đúng quy định về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản. Hiện nay, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, Nghị định số 154/2020/NĐ-CP đã quy định cụ thể về mẫu, thể thức, kỹ thuật trình bày đối với mỗi loại văn bản QPPL. Theo đó, chủ thể có thẩm quyền cần tuân thủ các quy định để đảm bảo văn bản ban hành đúng pháp luật.

Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020, việc xem xét tính hợp hiến, tính hợp pháp của một văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ lập để nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đến giám sát, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó:

3.1. Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp của văn bản thông qua hoạt động thẩm định trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Thẩm định là một thủ tục bắt buộc, không thể thiếu trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền thực hiện với mục đích nghiên cứu, xem xét, đánh giá một cách toàn diện về dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (về nội dung, hình thức, thẩm quyền, kỹ thuật soạn thảo văn bản) nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của văn bản với hệ thống pháp luật và các yêu cầu khác về chất lượng của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trước khi cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, ký ban hành hoặc xem xét để trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản. Thông qua kết quả thẩm định, cơ quan thẩm định cung cấp những thông tin về mặt pháp lý, thực tiễn và đưa ra những kiến nghị, đề xuất giúp cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, quyết định ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản. Đồng thời, hoạt động thẩm định là cơ chế hữu hiệu nhằm kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động thẩm định trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL bao gồm thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó:

* Thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020, Điều 4 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) bổ sung quy trình xây dựng chính sách trong một số trường hợp đối với luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Khi thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan thẩm định cần phải bám sát những quy định của Hiến pháp để đánh giá đầy đủ, toàn diện về nội dung của chính sách đề xuất, bảo đảm chính sách đó hợp hiến, hợp pháp, cụ thể hóa một cách toàn diện các quy định, nội dung, tinh thần của Hiến pháp. Trong đó, nội dung thẩm định về tính hợp hiến, hợp pháp tùy thuộc vào nội dung của chính sách, cần phải xem xét, đánh giá về các vẩn đề:

- Chính sách trong đề nghị dựa trên cơ sở quy định của Hiến pháp;

- Chính sách trong đề nghị nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, đưa ra những giải pháp bảo đảm thi hành các quy định của Hiến pháp;

- Chính sách trong đề nghị phù hợp với quy định của Hiến pháp về bản chất của nhà nước;

- Chính sách trong đề nghị phù hợp với quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;

- Chính sách trong đề nghị phù hợp với quy định của Hiến pháp về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước.

* Thm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 đã quy định cụ thể về các loại văn bản phải thẩm định, trách nhiệm thẩm định của các cơ quan. Nội dung thẩm định về tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật được coi là một trong các dung thẩm định quan trọng.

Yêu cầu bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật được đặt ra xuyên suốt quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Để xác định tính hợp hiến của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, chủ thể thẩm định cần xem xét sự phù hợp với các quy định cụ thể của Hiến pháp hoặc phù hợp với tinh thần, nguyên tắc của Hiến pháp về bản chất nhà nước, nội dung cơ bản của chế độ kinh tế, nghĩa vụ cơ bản của công dân, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước. Trong đó, đối với những quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thì những quy định phải phù hợp với nguyên tắc hiến định về tổ chức, hoạt động của từng loại cơ quan, người có thẩm quyển trong bộ máy nhà nước. Đối với những quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thì khi nghiên cứu dự thảo, người thẩm định cần đánh giá quy định của dự thảo bảo đảm không hạn chế quyền cơ bản của công dân. Người thẩm định cần xem xét, đánh giá sự phù hợp về hình thức và nội dung văn bản với thẩm quyền của chủ thể ban hành văn bản; sự phù hợp của nội dung dự án, dự thảo với quy định của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có giá trị pháp lý cao hơn; trình tự, thủ tục ban hành (lần đầu tiên pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định nghiêm cấm ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định tại Khoản 3 Điều 14 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015), ví dụ như vi phạm quy định về đăng tải lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động của văn bản (người dân, doanh nghiệp...) nhằm mục đích kiểm soát chặt chẽ tính hợp hiến, hợp pháp trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với các trường hợp xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục thông thường, không thuộc trường hợp theo trình tự, thủ tục rút gọn.

3.2. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản thông qua cơ chế kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật

Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đưa ra khái niệm: “Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là việc xem xét, đánh giá, kết luận về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật được kiểm tra và xử lý văn bản trái pháp luật". Về bản chất, kiểm tra văn bản là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 165, Điều 166, Điều 167 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thực hiện việc xem xét, đánh giá và kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản sau khi ban hành nhằm phát hiện, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật. Hoạt động kiểm tra văn bản được thực hiện kết hợp giữa việc tự kiểm tra văn bản của cơ quan, người ban hành văn bản với việc kiểm tra văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền.

Theo quy định tại Điều 111 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) thì cơ quan, người có thẩm quyền tự kiểm tra, kết luận tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản gồm: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt tự kiểm tra văn bản do mình ban hành hoặc liên tịch ban hành ngay sau khi văn bản được ban hành hoặc nhận được yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo đó, việc giúp cơ quan, người có thẩm quyển tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được quy định như sau:

- Người đứng đầu tổ chức pháp chế thuộc bộ, cơ quan ngang bộ là đầu mối giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện việc tự kiểm tra thông tư, thông tư liên tịch do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành.

- Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc Bộ Tư pháp là đầu mối giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc tự kiểm tra thông tư, thông tư liên tịch do Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành.

- Người đứng đầu tổ chức pháp chế cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với tổ chức pháp chế thuộc bộ mà Bộ trưởng bộ đó đã ban hành văn bản thuộc lĩnh vực hoạt động của cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc tự kiểm tra văn bản;

- Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân giúp Hội đồng nhân dân thực hiện việc tự kiểm tra văn bản của Hội đồng nhân dân;

- Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp, người đứng đầu cơ quan được Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt giao là đầu mối giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện việc tự kiểm tra văn bản;

- Công chức tư pháp - hộ tịch giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc tự kiểm tra văn bản;

- Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc Bộ Tư pháp, người đứng đầu tổ chức pháp chế thuộc bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, đơn vị có liên quan thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước để tự kiểm tra thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước.

Kiểm tra theo thẩm quyền là xem xét, đánh giá và kết luận về tính hợp pháp của văn bản được kiểm tra của cơ quan, người có thẩm quyền ở bộ, ngành, địa phương đối với các văn bản có quy định liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành, địa phương mình. Kiểm tra văn bản theo thẩm quyền nhằm bảo đảm nội dung của văn bản đã ban hành phù hợp với pháp luật về lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành có liên quan trong văn bản đó. Hoạt động kiểm tra theo thẩm quyền thực chất là sự “kiểm soát chéo” giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện pháp luật và có thể, từ hoạt động này mà những nội dung không phù hợp với pháp luật không được phát hiện ở giai đoạn tự kiếm tra sẽ được xem xét, đánh giá lại, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi của văn bản.

Theo quy định tại Điều 113 và Điều 114 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) thì các chủ thể sau có thẩm quyền kiểm tra văn bản:

(i) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ kiểm tra văn bản do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ban hành về những nội dung có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.

(ii) Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thẩm quyền kiểm tra văn bản theo quy định tại mục (i) nêu trên và giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; nội dung quy định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ trong thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước.

Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp kiểm tra các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

(iii) Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thực hiện thẩm quyền kiểm tra theo quy định tại mục (i) nêu trên và giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; nội dung quy định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp trong thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước.

(iv) Chủ tịch Ủy ban nhân cấp tỉnh kiểm tra văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện kiểm tra văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã.

Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có thể được xem là hoạt động bảo vệ Hiến pháp có tính đặc thù. Tính đặc thù của phương thức này thể hiện ở điểm, kiểm tra văn bản được thực hiện bởi các cơ quan, người có thẩm quyền trong nội bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước để xem xét tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của các văn bản từ cấp Bộ trưởng trở xuống sau khi văn bản được ban hành. Đồng thời, hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động xây dựng pháp luật, giúp nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật ban hành văn bản, góp phần bảo đảm chất lượng của hệ thống pháp luật; tác động sâu sắc đến hoạt động thi hành pháp luật, bảo đảm chỉ đưa vào thực hiện trong đời sống xã hội những văn bản hợp hiến, hợp pháp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước và xã hội.

Theo quy định tại Điều 104 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, nội dung kiểm tra văn bản tập trung xem xét, đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản được kiểm tra, bao gồm:

- Kiểm tra về thẩm quyền ban hành văn bản gồm kiểm tra thẩm quyền về hình thức và kiểm tra thẩm quyền về nội dung;

- Kiểm tra về nội dung văn bản; kiểm tra về căn cứ ban hành; thể thức, kỹ thuật trình bày;

- Kiểm tra về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản.

Trong đó, xem xét nội dung văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật, cụ thể:

(i) Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao[2], Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết, nghị quyết liên tịch của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

(ii) Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết, nghị quyết liên tịch của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tô quốc Việt Nam, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư, thông tư liên tịch của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ;

(iii) Nghị quyết, quyết định của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương và văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dần cấp tỉnh;

(iv) Nghị quyết, quyết định của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương và văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện;

(v) Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn văn băn được kiểm tra.

Các văn bản dùng làm căn cứ pháp lý để xác định nội dung trái pháp luật của văn bản được kiểm tra phải đang có hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản được kiểm tra hoặc chưa có hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản được kiểm tra nhưng đã được thông qua hoặc ký ban hành và sẽ có hiệu lực trước hoặc cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản được kiểm tra. Việc xem xét, đánh giá một nội dung, quy định của văn bản có bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong quá trình kiểm tra cũng chính là việc trả lời các câu hỏi nhằm xem xét tính hợp hiến, hợp pháp trong quá trình thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Theo quy định tại Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP), quy trình kiểm tra văn bản theo thẩm quyền gồm các bước như sau:

- Bước 1: Tiếp nhận văn bàn thuộc đối tượng kiểm tra;

- Bước 2: Thủ trưởng cơ quan kiểm tra văn bản phân công người kiểm tra văn bản;

- Bước 3: Người kiểm tra văn bản tiến hành xem xét, đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản được kiểm tra;

- Bước 4: Báo cáo kết quả kiểm tra văn bản và đề xuất hướng xử lý:

- Bước 5: Kết luận kiểm tra văn bản:

+ Thủ trưởng cơ quan kiểm tra văn bản xem xét, kết luận theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, kết luận về nội dung trái pháp luật của văn bản;

+ Kết luận kiểm tra phải có các nội dung cơ bản sau đây: tên văn bản được kiểm tra; tên và nội dung văn bàn làm cơ sở pháp lý để xác định nội dung trái pháp luật của văn bản được kiểm tra: ý kiến về nội dung trái pháp luật của văn bản được kiểm tra; yêu cầu cơ quan, người đã ban hành văn bản xem xét, xử lý và thông báo kết quả xử lý văn bản theo quy định của pháp luật, đồng thời kiến nghị việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, người đã tham mưu xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật đó;

+ Kết luận kiểm tra được gửi cho cơ quan,, người đã ban hành văn bản để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.

Khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, cơ quan, đơn vị thực hiện việc tự kiểm tra theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 111 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) có trách nhiệm lập hồ sơ kiểm tra văn bản và báo cáo ngay kết quả kiểm tra văn bản với cơ quan, người đã ban hành văn bản đó để xem xét xử lý đình chỉ thi hành, bãi bỏ hoặc đính chính theo quy định tại Điều 130 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) quy định cụ thể hình thức xử lý văn bản trái pháp luật, văn bản có sai sót về căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật.

Như vậy, hoạt động kiểm tra văn bản của các chủ thể có trách nhiệm, thẩm quyền kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đối với văn bản ngay sau khi được ban hành là phương thức “hậu kiểm" quan trọng nhằm kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật khi đưa vào thực tế áp dụng, hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả do văn bản trái pháp luật gây ra.

3.3. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản thông qua cơ chế giám sát văn bản quy phạm pháp Iuật

Theo quy định tại Điều 162 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì:

“1. Văn bản quy phạm pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát theo quy định của pháp luật.

2. Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành nhằm phát hiện những nội dung trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc không còn phù hợp để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản, đồng thời xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý cơ quan, cá nhân đã ban hành văn bản trái pháp luật".

Như vậy, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật sau khi được ban hành không chỉ được thực hiện thông qua kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật mà còn được thực hiện thông qua kênh giám sát của các cơ quan, người có thẩm quyền.

Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đông nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân giám sát, xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện ở các nội dung giám sát sau đây:

- Sự phù hợp của văn bản với Hiến pháp (bao gồm cả quy định và tinh thần), luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

- Sự phù hợp của hình thức văn bản với nội dung của văn bản đó;

- Sự phù hợp của nội dung văn bản với thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản;

- Sự thống nhất giữa văn bản quy phạm pháp luật hiện hành với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành của cùng một cơ quan.

Như vậy, về cơ bản, các nội dung trong hoạt động giám sát của các cơ quan có chức năng giám sát nêu trên tương tự như trong hoạt động thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, qua hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan có thẩm quyền cũng thực hiện xử lý văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật (Điều 164 Luật):

- Quốc hội bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

- Ủy ban thường vụ Quốc hội đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định bãi bỏ các văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Hội đông nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật củaa cơ quan nhà nước cấp trên;

- Hội đồng nhân dân bãi bỏ văn bản quy pham pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trái với nghị quyết của mình, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.

Như vậy, khác với hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật chỉ thực hiện đối với các văn bản quy phạm pháp luật từ thông tư của Bộ trưởng trở xuống, giám sát được thực hiện đối với văn bản quy phạm pháp luật từ luật trở xuống nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản. Hoạt động này đã được quy định cụ thể tại Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016). Việc xác định tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản được giám sát thực hiện như việc xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khi thực hiện thẩm định. Như vậy, kết hợp hoạt động thẩm định, kiểm tra và giám sát văn bản quy phạm pháp luật sẽ kiểm soát chặt chẽ tính hợp hiến, hợp pháp của toàn diện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

3.4. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản thông qua hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật

Ngoài kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật cũng là một phương thức "hậu kiểm" có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật. Khoản 5 Điều 2 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định: “Rà soát văn bản quy phạm pháp luật là việc xem xét, đối chiếu, đánh giá các quy định của văn bản được rà soát với văn bản là căn cứ để rà soát, tình hình phát triển kinh tế - xã hội nhằm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp". Như vậy, mục đích cuối cùng của rà soát văn bản quy phạm pháp luật cũng chính là nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật.

Văn bản được rà soát quy định tại Điều 137 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP gồm các văn bản quy định tại Điều 4 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, trừ Hiến pháp. Nguyên tắc rà soát văn bản quy phạm pháp luật quy dịnh tại Điều 138 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, cụ thể: “Việc rà soát văn bản phải dược tiến hành thường xuyên, ngay khi có căn cứ rà soát; không bỏ soát văn bản thuộc trách nhiệm rà soát; kịp thời xử lý kết quả rà soát; tuân thủ trình tự rà soát". Đối với hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật, người thực hiện rà soát các nội dung sau: Hiệu lực của văn bản, căn cứ ban hành của văn bản, thẩm quyền ban hành văn bản, nội dung của văn bản, đối tượng điều chỉnh của văn bản, hình thức văn bản, quan hệ xã hội mới cần được điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 147, Điều 148 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP). Trong hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật, việc xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản, người rà soát văn bản phải xem xét sự phù hợp về thẩm quyền ban hành văn bản được rà soát (thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung) với quy định của văn bản là căn cứ để rà soát và đánh giá nội dung của văn bản được rà soát để xác định quy định trái, chồng chéo, mâu thuẫn với văn bản là căn cứ rà soát. Thẩm quyền về hình thức được xác định theo quy định về hình thức (tên loại) văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của cơ quan, người có thẩm quyền.

Thẩm quyền về nội dung được xác định theo quy định về phân công, phân cấp, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước cụ thể của từng cơ quan, từng cấp, từng ngành đối với từng lĩnh vực.

Khi xem xét, đánh giá nội dung văn bản được rà soát, người rà soát cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa các quy định trái pháp luật trong hoạt động rà soát và các quy định trái pháp luật trong hoạt động kiểm tra văn bản. Theo đó, trong hoạt động kiểm tra, tính hợp pháp của văn bản cân được xem xét, đối chiếu với các quy định tại văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên kể từ thời điểm văn bản được ban hành. Tuy nhiên, trong hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật, tính hợp pháp của văn bản được rà soát cần xem xét, đối chiếu với các quy định của văn bản là căn cứ để rà soát. Về bản chất, văn bản là căn cứ để rà soát được ban hành mới làm cho văn bản được rà soát không phù hợp, mâu thuẫn, lạc hậu. Trong đó, trường hợp các văn bản là căn cứ để rà soát có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dung quy định của văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, nếu các văn bản là căn cứ để rà soát do một cơ quan ban hành thì áp dụng văn bản được ban hành sau.

Việc xem xét các nội dung của văn bản được rà soát phù hợp hay không phù hợp với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên được thực hiện như đối với hoạt động xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản trong thẩm định dự thảo văn bản, giám sát, kiểm tra văn bản. Tuy nhiên, hậu quả pháp lý của văn bản trái pháp luật trong rà soát khác với hậu quả pháp lý của văn bản khi kiểm tra phát hiện trái pháp luật. Đồng thời, đối với văn bản qua rà soàt phát hiện trái, chồng chéo, mâu thuẫn thì không đặt ra trách nhiệm pháp lý của người ban hành văn bản, trong khi đó, việc xem xét văn bản trái pháp luật trong hoạt động kiểm tra cần gắn với xem xét trách nhiệm của người ban hành văn bản trái pháp luật. Theo đó, căn cứ vào kết quả rà soát, các cơ quan có trách nhiệm rà soát thực hiện xử lý hoặc kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý văn bản trái, mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật. Các hình thức xử lý văn bản được rà soát quy định tại Điều 143 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP).

Để xác định một nội dung của văn bản không phù hợp với quy định hay tinh thần (quy định gián tiếp) của Hiến pháp, người làm công tác xây dựng, giám sát, kiểm tra, rà soát văn bản (sau đây gọi tắt là người làm công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật) cần hiểu rõ các quy định của Hiến pháp liên quan đến lĩnh vực điều chỉnh của văn bản đó. Đối với các quy định mang tính trực tiếp trong Hiến pháp, người làm công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật cần đối chiếu, so sánh các văn bản quy phạm pháp luật với các quy định của Hiến pháp. Từ đó, xem xét văn bản quy phạm pháp luật có đặt ra những quy định mới, hạn chế quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân hay không nhằm mục đích xác định tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật.

Đối với những quy định gián tiếp của Hiến pháp, người làm công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật cần so sánh, đối chiếu với các văn bản quy phạm pháp luật mà Hiến pháp dẫn chiếu, giao quy định (thường bao gồm các luật và các văn bản dưới luật liên quan đến ngành, lĩnh vực đó). Trường hợp phát hiện văn bản được xem xét, kiểm tra, rà soát có những nội dung không phù hợp thì có thể hiểu văn bản đó không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. Xem xét sự phù hợp của văn bản được giám sát, kiểm tra, rà soát với tinh thần của Hiến pháp là việc làm khó bởi những quy định này không thể hiện rõ ràng, đòi hỏi người thực hiện xem xét, kiểm tra, rà soát văn bản phải hiểu rõ các quy định của Hiến pháp cũng như quy định của các văn bản pháp luật có liên quan.

Như vậy, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là một nguyên tắc đã được quy định tại Hiến pháp năm 2013, đồng thời tiếp tục được khẳng định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 về nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Khoản 1 Điều 5). Việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của hệ thống pháp luật không chủ được thực hiện trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà còn được thực hiện trong quá trình thi hành, hoàn thiện pháp luật như cơ chế giám sát, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản. Việc xem xét, đánh giá về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật cần được thực hiện theo các tiêu chí khoa học, rõ ràng trên cơ sở quy định pháp luật như đã nêu.

IV. BẢO ĐẢM TÍNH THỐNG NHẤT, TÍNH ĐỒNG BỘ, KHẢ THI CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

4.1. Tính thống nhất, tính đồng bộ của văn bản quy phạm pháp luật

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau theo cơ quan, người có thẩm quyền ban hành. Tính thống nhất, đồng bộ được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật cũng như đối với từng văn bản quy phạm pháp luật. Bảo đảm tính thống nhất của văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do một cơ quan ban hành không được mẫu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác của chính cơ quan ban hành văn bản đó, văn bản của cơ quan nhà nước cấp dưới không mẫu thuẫn với văn bản do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành. Như vậy, tính thống nhất, tính đồng bộ của văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi nội dung chính sách phải nhất quán trong toàn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật và các quy phạm pháp luật phải phù hợp, không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau, hệ thống pháp luật phải đầy đủ, toàn diện để áp dụng. Khi xem xét tính thống nhất của hệ thống pháp luật, cần xem xét tính thống nhất giữa các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật trong cùng một ngành và với các ngành khác. Để bảo đảm tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật với hệ thống pháp luật thì phải tập trung vào cả 02 (hai) giai đoạn:

(i) Giai đoạn trước khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành:

Đây chính là giai đoạn xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các công việc như lập đề nghị, soạn thảo, lấy ý kiến góp ý, thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua hoặc ký ban hành văn bản. Ở giai doạn này, văn bản đang ở dạng dự thảo, do đó, dự thảo văn bản cần được xem xét kỹ cả về tính thống nhất giữa văn bản quy phạm pháp luật đó với hệ thống pháp luật và tính thống nhất trong chính nội tại văn bản quy phạm pháp luật. Đối với nội dung xem xét, đánh giá tính thống nhất, đồng bộ của chính sách trong giai đoạn đề nghị xây đựng văn bản quy phạm pháp luật, cần tập trung một số vấn đề chủ yếu sau đây:

- Sự thống nhất, đồng bộ của các chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật với các chính sách trong các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn. Nội dung các chính sách phải phù hợp với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn;

- Sự thống nhất, đồng bộ của các chính sách trong đề nghi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật với các quy định của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành khác do cơ quan cùng cấp có thẩm quyền ban hành về cùng một vấn đề, đảm bảo không có chồng chéo, mâu thuẫn giữa nội dung của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật với các quy định hiện hành.

Đối với xem xét tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cần tập trung vào một số tiêu chí sau:

- Sự thống nhất của các quy định trong các dự án, dự thảo với các quy định tại văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn;

- Sự thống nhất của các quy định trong dự án, dự thảo với các quy định của văn bản quy phạm pháp hiện hành khác do cơ quan cùng cấp có thẩm quyền han hành về cùng một vấn đề, bảo đảm không có chồng chéo, mâu thuẫn giữa nội dung dự án, dự thảo với các quy định hiện hành.

- Đối với một VBQPPL, tính đồng bộ, thống nhất thể hiện ngay trong cơ cấu của văn bản. Cơ cấu của văn bản phải thể hiện được mối liên hệ logic giữa các phần, chương, mục, điều, khoản, điểm với cách trình bày, cách đánh số thứ tự thống nhất. Mỗi phần, chương, mục, điều, khoản, điểm đều có nội dung thể hiện chủ đề chính của văn bản, hướng tới mục tiêu chung.

Ngoài ra, theo Khoản 2 Điều 11 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định về văn bản quy định chi tiết thì: Dự thảo văn bản quy địinh chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự án luật, pháp lệnh và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết”.

Theo Khoản 2 Điều 12 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật thì: “Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban hành văn bản phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới ngay trong văn bản mới đó.… ".

Như vậy, các quy định trên cho thấy tính thống nhất, đồng bộ của văn bản quy phạm pháp luật là một yêu cầu bắt buộc của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 trong giai đoạn xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Giai đoạn sau khi văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành: Đây là giai đoạn văn bản quy phạm pháp luật đã trở thành một bộ phận của hệ thống pháp luật. Do đó, để bảo đảm tính thống nhất của toàn hệ thống pháp luật đòi hỏi phải thực hiện việc kiểm tra, rà soát thường xuyên, kịp thời các văn bản cũng như các quy định có liên quan nhằm phát hiện những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất để kịp thời sửa đổi, loại bỏ ra khỏi hệ thống pháp luật hoặc đề xuất ban hành các quy định phù hợp để thực hiện.

Việc xem xét, đánh giá về tính đồng bộ, thống nhất của văn bản QPPL đòi hỏi phải có một cái nhìn bao quát, xuyên suốt, toàn diện ở nhiều giai đoạn (xây dựng, thẩm định, hậu kiểm), nhiều góc độ, nhiều cấp độ khác nhau. Tính đồng bộ, thống nhất của văn bản QPPL đòi hỏi phải loại bỏ mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng chéo ngay trong bản thân văn bản, trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau, xác định ranh giới giữa các ngành luật làm cơ sở cho một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ, thống nhất.

4.2. Tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật

Tính khả thi của văn bản bao gồm sự phù hợp giữa quy định của văn bản với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện. Sự phù hợp này phản ánh rất rõ mối tương quan giữa trình độ pháp luật và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Tính khả thi là một trong những tiêu chí xây dựng và đánh giá văn bản quy phạm pháp luật. Một văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng thì phải đảm bảo tính khả thi, nghĩa là các quy định trong văn bản QPPL phải có khả năng thực hiện trong điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội trong hiện tại. Điều này đòi hỏi các quy định pháp luật phải được ban hành phù hợp với trình độ phát triển của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Trường hợp nội dung quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các điều kiện phát triển của đất nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật (không có khả năng thực hiện được hoặc được thực hiện nhưng không nghiêm minh, không hiệu quả trong đời sống xã hội).

Tính khả thi của các quy phạm pháp luật chủ yếu được kiểm soát chặt chẽ hơn cả trong giai đoạn trước khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, các phươmg thức kiểm soát văn bản quy phạm pháp luật sau khi văn bản được ban hành như kiểm tra, giám sát, rà soát... chủ yếu tập trung xem xét tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật. Tính khả thi của văn bản chỉ được kiến nghị sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn, xuất phát từ những bất cập trong thi hành pháp luật.

Việc kiểm soát tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật trong giai đoạn trước khi ban hành văn bản được thể hiện rõ nhất tại thủ tục thẩm định chính sách trong lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thẩm định tính khả thi của nội dung chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, nội dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải xem xét, đánh giá theo các tiêu chí cơ bản sau:

- Sự phù hợp giữa nội dung chính sách dự kiến trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật với điều kiện kinh tế - xã hội, theo đó, dự báo sự phù hợp, sự tác động giữa chính sách dự kiến và dự thảo văn bản với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội;

- Sự toàn diện của các biện pháp, sự tương xứng, hợp lý của các chế tài so với yêu cầu giải quyết vấn đề. Trong trường hợp các biện pháp thực hiện chính sách dự kiến trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nhằm giải quyết vấn đề gây tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến các đối tượng khác trong xã hội thì báo cáo thẩm định phải phản ánh rõ vấn đề này và đề nghị có biện pháp khắc phục;

- Có cơ chế bảo đảm thực thi chính sách, quy định theo hướng xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thực hiện. Chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, quy định trong dự thảo văn bản có bảo đảm đầy đủ cơ chế để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản như nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thực hiện. Chẳng hạn, phạm vi của chính sách đòi hỏi phải giải quyết 10 vấn đề nhưng cơ chế bảo đảm chỉ giải quyết được 5 - 6 vấn đề là chưa đủ, chưa bảo đảm tính khả thi của chính sách;

- Phải dự báo được sự phù hợp, sự tác động giữa chính sách dự kiến trong để nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và nội dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật với điều kiện kinh tế - xã hội và nhận thức, khả năng tuân thủ của tổ chức, cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định (dài hạn hoặc trung hạn), hạn chế đến mức thấp nhất việc đề xuất, xây dựng và ban hành chính sách một cách tùy tiện, ngẫu hứng, không có tính dự báo, tính khả thi trong thực tế;

- Bảo đảm sự phù hợp giữa chính sách dự kiến trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật với điều kiện thực tế, phải bảo đảm tính khả thi trên cơ sở tham khảo ý kiến của các Bộ, ngành, tổ chức khác như Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Ngoại giao...; đánh giá dự phù hợp của nội dung chính sách, nội dung văn bản với những điều kiện đặc thù về địa lý, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đối tượng chịu sự tác động của văn bản và trình độ dân trí;

- Sự rõ ràng, cụ thể của chính sách, văn bản để có thể hiểu đúng, hiểu thống nhất và áp dụng được ngay khi văn bản có hiệu lực thi hành mà không cần thiết ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Bảo đảm việc thực thi văn bản phải tiết kiệm, hiệu quả: các chi phí tài chính của nhà nước, doanh nghiệp phải bỏ ra để thực thi văn bản là thấp nhất; Không làm thay đổi lớn tổ chức, bộ máy, nhân sự của các cơ quan hiện hành.

V. KẾT LUẬN

Việc xem xét, đánh giá tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết cũng như việc xem xét, đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện ở tất cả các khâu đoạn trong chu trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật, từ khi văn bản được xây dựng, ban hành cho đến khi văn bản đó được sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động này được tiến hành trong nhiều hoạt động khác nhau như thẩm định, thẩm tra, kiểm tra, rà soát, theo dõi thi hành văn bản. Mỗi hoạt động xem xét, đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi có tính chất rất khác nhau, theo đó, kết quả xử lý văn bản ở từng phương thức cũng khác nhau. Gắn với mỗi yêu cầu (tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi) được xem xét, đánh giá cũng có các tiêu chí cụ thể khác nhau tương ứng (tiêu chí đánh giá tính hợp pháp khác với tiêu chí đánh giá về tính khả thi) như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, việc xem xét, đánh giá văn bản quy phạm pháp luật theo các tiêu chí (tính kịp thời,đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết cũng như việc xem xét, đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi) phải thực hiện trên cơ sở nhận thức đúng đắn về mối quan hệ mật thiết, thống nhất và bổ trợ cho nhau giữa các yêu cầu. Tính hợp pháp, đồng bộ, thống nhất là biểu hiện của nguyên tắc pháp quyền - một nguyên tắc hiến định. Trong khi tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật thể hiện tính hiệu quả cao nhất về kinh tế - chính trị, xã hội, tuy nhiên tính khả thi cũng phần nào hàm chứa biểu hiện của tính hợp pháp, đồng bộ, thống nhất (văn bản QPPL sẽ thiếu khả thi, thậm chí không khả thi trong quá trình triển khai thực hiện nếu được ban hành trái pháp luật hoặc không đồng bộ, thống nhất với các văn bản QPPL khác trong hệ thống pháp luật). Sức sống và khả năng tồn tại của các văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào tính khả thi của nó. Văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành chỉ có thể trở thành bộ phận hữu cơ của cơ chế điều chỉnh pháp luật và có hiệu quả khi nội dung và hình thức của chúng bảo đảm cả tính hợp pháp, đồng bộ, thống nhất và tính khả thi. Việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu hợp pháp, đồng bộ, thống nhất sẽ đơn giản hơn đối với yêu cầu về tính khả thi vì tính hợp pháp, đồng bộ, thống nhất có những tiêu chí định lượng rõ ràng hơn; trong khi đó, tính khả thi lại phụ thuộc nhiều vào tiêu chí định tính. Mặc dù có sự khác nhau về các tiêu chí cụ thể nhưng có thể thấy tất cả các yêu cầu về tính kịp thời, đầy đủ của việc ban hành văn bản quy định chi tiết cũng như tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của văn bản quy phạm pháp luật đều hướng tới mục đích chung về xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch./.

 

 

 

 

 

 

CHUYÊN ĐỀ 2

KỸ NĂNG TỔ CHỨC THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

 

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Xử phạt vi phạm hành chính là một trong hai loại chế tài điển hình của Việt Nam (chế tài hình sự). Mức độ nghiêm khắc của chế tài xử phạt được thể hiện thông qua các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả ghi trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Thực tiễn cho thấy, kết quả thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là thước đo sự nghiêm túc, tính hiệu quả của việc áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính. Với ý nghĩa nêu trên thì thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là một trong những quy định có vị trí rất quan trọng của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.

2. Thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là giai đoạn kết thúc của quá trình thực hiện thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, để đạt được kết quả mong muốn, nhiều vấn đề liên quan đến việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt cần được giải quyết một cách đồng bộ, từ cơ sở pháp lý đến điều kiện bảo đảm cho việc thi hành, khả năng, trình độ của người có thẩm quyền áp dụng pháp luật và ý thức thái độ của người vi phạm, trong đó, người có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện các thủ tục thi hành quyết đinh xử phạt một cách đầy đủ, chặt chẽ, nhanh chóng, công minh, đúng quy định của pháp luật.

3. Tại phần thứ hai, Chương III Mục 2 của Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định cụ thể về thi hành quyết định xử phạt. Có thể nói, các quy định về thi hành quyết định xử phạt trong Luật Xử lý vi phạm hành chính tương đối cụ thể, chi tiết (đặc biệt là so với các Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trước đây) nhưng để áp dụng pháp luật chính xác đòi hỏi người có thẩm quyền không những phải nắm vững các quy định cụ thể mà còn phải có khả năng khớp nối các nội dung liên quan với nhau để tổ chức thi hành một hoặc nhiều quyết định xử phạt thuộc trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, với đặc điểm đặc thù là việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt trên thực tế sẽ áp dụng đối với đối tượng cụ thể, thông qua nhiều hoạt động khác nhau nên trong quá trình áp dụng pháp luật, người có thẩm quyền thi hành quyết định xử phạt cũng cần có thông tin, kinh nghiệm để có thể dự liệu, xử lý kịp thời các tình huống khác nhau. Xuất phát từ lý do này thì việc trang bị kiến thức pháp luật cũng như kỹ năng xử lý tình huống thực tế đối với các trường hợp cụ thể là hết sức cần thiết. Do đó, trong phạm vi chuyên đề này, thông qua các quy định của pháp luật về thi hành quyết định xử phạt, chúng tôi tập trung giới thiệu một số kỹ năng trong tổ chức thi hành quyết định xử phạt.

II. QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH – KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN TỔ CHỨC THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT, THỜI HẠN BAN HÀNH VÀ CÓ HIỆU LỰC CỦA QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT

1. Khái niệm quyết định xử phạt và một số yếu tố liên quan trực tiếp đến tổ chức thi hành quyết định xử phạt 

Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, với danh nghĩa nhà nước quyết định áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra đối với cá nhân, tổ chức vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Hiện nay, Luật Xử lý vi phạm hành chính không có quy định cụ thể khái niệm về quyết định xử phạt nhưng trên cơ sở giải thích từ ngữ “xử phạt vi phạm hành chính” quy định tại khoản 2 Điều 2 của Luật như đã nêu trên cũng như các quy định khác có liên quan tại Điều 66, Điều 67 và Điều 68 trong Luật Xử lý vi phạm hành chính, chúng ta có thể xác định quyết định xử phạt vi phạm hành chính như sau: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là quyết định bằng văn bản của người có thẩm quyền để áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính.

Như vậy, cơ sở của việc ra quyết định xử phạt là hành vi vi phạm hành chính và việc thi hành quyết định xử phạt thực chất là tổ chức thực hiện các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả pháp luật quy định đối với hành vi vi phạm đó. Qua thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính cho thấy, việc tổ chức quyết định xử phạt có mối quan hệ chặt chẽ với tính chất, mức độ và một số đặc điểm khác của hành vi vi phạm hành chính, đồng thời phụ thuộc rất nhiều vào ví trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và điều kiện vật chất của cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định xử phạt, cụ thể:

1.1. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt có mối quan hệ chặt chẽ với tính chất, mức độ hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và một số đặc điểm khác về đối tượng, hậu quả, địa điểm vi phạm hành chính

Như chúng ta đã biết, hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm được thực hiện trên thực tế là cơ sở ban hành quyết định xử phạt. Do đặc điểm này, mỗi quyết định xử phạt sẽ có chế tài khác nhau, áp dụng với các chủ thể vi phạm khác nhau và kết quả, hiệu quả thi hành quyết định xử phạt đối với từng vụ việc cũng khác nhau. Có thể phân tích sự ảnh hưởng này, trên các phương diện:

- Sự liên quan giữa tổ chức thi hành quyết định xử phạt với tính chất, mức độ của vi phạm hành chính:

Vi phạm hành chính rất đa dạng, phong phú, có những vi phạm hành chính đơn giản, rõ ràng, không gây hậu quả hoặc chưa gây hậu quả hoặc hậu quả gây ra không đáng kể. Nhưng có những vụ vi phạm hành chính lại rất phức tạp, tốn kém nhiều thời gian, công sức để tiến hành điều tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, thậm chí có nhiều vụ việc phải tiến hành giám định (giám định chất lượng hàng hóa, nhãn hiệu …) mới có đủ căn cứ để người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đối với cả hai trường hợp, đặc biệt là các trường hợp phức tạp, khi tổ chức thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người có thẩm quyền cần lưu ý tổng hợp đầy đủ chứng cứ, tài liệu liên quan để có cơ sở chứng minh hành vi vi phạm hành chính cũng như tính hợp pháp của quyết định xử phạt. Đây là yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt được thuận lợi, hiệu quả trên thực tế.

Ví dụ: Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

(i) Điều 17 về hành vi vi phạm quy định về tiêu chuẩn công bố áp dụng:

Khoản 3 Điều 17 quy định: Phạt tiền từ 01 lần đến 02 lần tổng giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm đã tiêu thụ đối với hành vi sản xuất hoặc nhập khẩu sản phẩm, hàng hóa có chất lượng không phù hợp với tiêu chuẩn đã công bố áp dụng.

(ii) Điều 30 về hành vi vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa trong kinh doanh sản phẩm, hàng hóa:

Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây trong trường hợp hàng hóa vi phạm có giá trị đến 5.000.000 đồng: Hàng hóa có nhãn hàng hóa nhưng bị che lấp, rách nát, mờ không đọc được hoặc không đọc được hết các nội dung bắt buộc trên nhãn hàng hóa; Hàng hóa có nhãn ghi không đúng quy định về kích thước chữ và số, ngôn ngữ sử dụng, định lượng và đơn vị đo theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa.

(iii) Điều 31 về vi phạm quy định về nội dung bắt buộc trên nhãn hàng hóa hoặc nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn theo tính chất hàng hóa:

Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây trong trường hợp hàng hóa vi phạm có giá trị đến 3.000.000 đồng: Hàng hóa có nhãn (kể cả tem hoặc nhãn phụ) hoặc tài liệu kèm theo không ghi đủ hoặc ghi không đúng các nội dung bắt buộc trên nhãn hàng hóa hoặc nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn theo tính chất hàng hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa; Hàng hóa nhập khẩu có nhãn gốc bằng tiếng nước ngoài nhưng không có nhãn phụ bằng tiếng Việt Nam (Khoản 1).

- Sự liên quan giữa tổ chức thi hành quyết định xử phạt với các hình thức chế tài được áp dụng đối với từng hành vi vi phạm hành chính:

Nếu xét dưới góc độ áp dụng hình thức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm hành chính thì có những hành vi chỉ bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo, phạt tiền rất thấp, nhưng cũng có hành vi vi phạm bị áp dụng hình thức phạt tiền với mức tiền phạt rất lớn hoặc trường hợp phải thực hiện hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra, thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của đối tượng vi phạm và/hoặc phải chi phí với một khoản tiền rất lớn. Như chúng ta đã biết, các chế tài được áp dụng đối với từng hành vi đều được ghi cụ thể trong quyết định xử phạt. Trong trường hợp hành vi vi phạm hành chính bị áp dụng chế tài nghiêm khắc, việc thi hành quyết định xử phạt sẽ có khó khăn hơn, phức tạp hơn do đối tượng không đồng thuận thực hiện quyết định xử phạt, thậm chí chống đối không thực hiện hay có văn bản khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, bên cạnh việc nắm vững các quy định pháp luật liên quan, người có thẩm quyền xử phạt phải dự liệu và chuẩn bị tốt các công việc cần thiết phục vụ trực tiếp cho việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt.

Ví dụ: Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016  của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường

Điều 14 về vi phạm các quy định về xả nước thải có chứa các thông số môi trường nguy hại vào môi trường: Hành vi xả nước thải có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật cho phép, trừ các trường hợp hành vi tội phạm về môi trường sẽ bị  phạt tiền từ 950.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với (khoản 10); bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt động của cơ sở hoặc hoạt động gây ô nhiễm môi trường của khu sản xuất kinh doanh, dịch vụ tập trung từ 06 tháng đến 12 tháng (khoản 12); áp dụng 3 biện pháp khắc phục hậu quả là khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và báo cáo kết quả đã khắc phục xong hậu quả vi phạm trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp, Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định.

- Sự liên quan giữa tổ chức thi hành quyết định xử phạt với đối tượng bị xử phạt:

Xét dưới góc độ là đối tượng bị xử phạt thì cũng có rất nhiều đặc điểm khác nhau, có những đối tượng khi bị xử phạt có đủ điều kiện vật chất, kinh tế để thực hiện quyết định xử phạt tiền và thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả, nhưng có đối tượng việc thực hiện quyết định xử phạt rất khó khăn, là vấn đề lớn liên quan đến đời sống tối thiểu, đến công cụ, phương tiện lao động công việc làm ăn hàng ngày của họ, có những đối tượng có thể tự mình thực hiện biện pháp khắc hậu quả, nhưng cũng có những đối tượng không thể tự mình thực hiện được hoặc là nếu bỏ qua điều kiện về kinh tế, thì cũng không thể đủ điều kiện chuyên môn, thời gian để thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra (buộc thực hiện các biện pháp khắc phục lại tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra). Có những đối tượng là cán bộ, công chức nhà nước có nguồn thu nhập ổn định và có sự quản lý của cơ quan, tổ chức nơi người vi phạm làm việc. Nhưng ngược lại cũng có những đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính có thu nhập rất thấp, không ổn định, không do một cơ quan, tổ chức nào quản lý. Có thể nói, đối tượng bị xử phạt và thái độ tuân thủ của đối tượng bị xử phạt là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định tính khả thi của việc thi hành quyết định xử phạt.

Ví dụ: Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính về việc phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức.

Ví dụ: Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai

Điều 16. Gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với trường hợp đưa vật liệu xây dựng hoặc các vật khác lên thửa đất của người khác hoặc thửa đất của mình mà gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác.

2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với trường hợp đưa chất thải, chất độc hại lên thửa đất của người khác hoặc thửa đất của mình gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác.

3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với trường hợp đào bới, xây tường, làm hàng rào gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác.

4. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

- Sự liên quan giữa tổ chức thi hành quyết định xử phạt với địa điểm thực hiện hành vi vi phạm: dưới góc độ địa điểm xảy ra vi phạm hành chính, thì vi phạm hành chính cũng xảy ra ở những nơi khác nhau, nhưng phải đảm bảo rằng ở những nơi đó có hoạt động của con người và có vi phạm hành chính.

Trong trường hợp nơi thực hiện hành vi vi phạm hành chính khác với nơi hoạt động và sinh sống của đối tượng vi phạm hành chính thì việc thi hành quyết định xử phạt cũng cần được tổ chức phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế.

Ví dụ: Điều 71 Luật Xử lý vi phạm hành chính về chuyển quyết định xử phạt để thi hành.

- Xem xét dưới góc độ của hậu quả về vật chất do vi phạm hành chính gây ra, đặc biệt là những vụ vi phạm hành chính phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, thì những vụ vi phạm này gây thiệt hại về vật chất rất lớn cho xã hội. Đối với các quyết định xử phạt có biện pháp khắc phục hậu quả thì việc tổ chức thi hành thường khó khăn, phức tạp hơn, đặc biệt nhiều trường hợp rất tốn kém kinh phí, phải huy động nhân lực cũng như đòi hỏi sự phối hợp của nhiều cơ quan khác nhau trong quá trình triển khai thực hiện.

 Ví dụ: Nghị định số 139/2017/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đầu tư khai thác khoáng sản, xây dựng; khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở.

Điều 15 vi phạm quy định về trật tự xây dựng, tại khoản 7 quy định: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng và buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng vi phạm đối với một trong các hành vi sau đây: Xây dựng công trình không phù hợp với quy hoạch xây dựng được duyệt; Xây dựng công trình vi phạm chỉ giới xây dựng; Xây dựng công trình sai cốt xây dựng…

Với những đặc điểm đã nêu trên cho thấy việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt rất đa dạng, phong phú; có những trường hợp cơ quan nhà nước tổ chức thi hành quyết định xử phạt tương đối thuận lợi, nhanh chóng, nhưng cũng có trường hợp việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt rất khó khăn, kéo dài, thậm chí phải phối kết hợp nhiều cơ quan khác nhau nhưng vẫn không thi hành được.

1.2. Việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt gắn liền với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt và cơ quan quản lý họ

Một vấn đề khác liên quan đến thi hành quyết định xử phạt đó là chủ thể chịu trách nhiệm thi hành quyết định xử phạt. Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thi hành án hình sự, tòa án (cơ quan ra các bản án, quyết định) không phải là cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành bản án đã tuyên. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt và cơ quan quản lý của họ cũng đồng thời phải chịu trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định đó (Điều 73, Điều 78, Điều 85 Luật Xử lý vi phạm hành chính). Với đặc điểm này thì sau khi ra quyết định xử phạt, người có thẩm quyền và cơ quan quản lý của họ có vai trò chủ chốt tiến hành các thủ tục cần thiết để tổ chức thi hành quyết định xử phạt.

Bên canh đó, về phương diện tổ chức quản lý hành chính, để tổ chức thi hành quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền phải thuộc một cơ quan nhất định, nhân danh hoặc đại diện cho cơ quan, sử dụng các phương tiện cần thiết để tiến hành các thủ tục trong quá trình tổ chức thi hành quyết định xử phạt. Về phương diện thực tế, không phải bất cứ vụ việc nào người có thẩm quyền xử phạt cũng có điều kiện độc lập tổ chức thi hành quyết định xử phạt, nhiều vụ việc, người có thẩm quyền chỉ có thể phát huy vai trò của mình trên cơ sở vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý họ (đặc biệt là đối với các vụ việc phức tạp) và các cơ quan khác có liên quan (đặc biệt trong trường hợp phối hợp). Điều này thể hiện rõ nhất đối với việc tổ chức thi hành các quyết định xử phạt nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài hoặc phải cưỡng chế thi hành (ví dụ: Điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính về công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc xử phạt đối với tổ chức, cá nhân vi phạm; Điều 71 Luật Xử lý vi phạm hành chính về chuyển quyết định xử phạt vi phạm hành chính để tổ chức thi hành; Điều 85 Luật Xử lý vi phạm hành chính về thi hành biện pháp khắc phục hậu quả …).

2. Thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Theo quy định tại Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản. Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn thứ 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày.

3. Nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Điều 68 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải bao gồm các nội dung chính sau đây: địa danh, ngày, tháng, năm ra quyết định; căn cứ pháp lý để ban hành quyết định; biên bản vi phạm hành chính, kết quả xác minh, văn bản giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm hoặc biên bản họp giải trình và tài liệu khác (nếu có); họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm hành chính; tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; hình thức xử phạt chính; hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có); quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính; hiệu lực của quyết định, thời hạn và nơi thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nơi nộp tiền phạt; họ tên, chữ ký của người ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; trách nhiệm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và việc cưỡng chế trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành.

4. Về thời gian tổ chức thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Thông thường, quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải được thi hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày người vi phạm nhận được quyết định xử phạt trừ trường hợp quyết định xử phạt có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn ghi trong quyết định xử phạt. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cũng phải thực hiện một số công việc tương ứng với việc thực hiện nghĩa vụ của đối tượng vi phạm như: gửi quyết định xử phạt để thi hành (Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính); giải quyết khiếu nại nếu đối tượng vi phạm có khiếu nại (Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính); thu nộp tiền phạt (Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính); xem xét hoãn, giảm, miễn (Điều 76, Điều 77 Luật Xử lý vi phạm hành chính) hoặc chuyển quyết định xử phạt để tổ chức thi hành (Điều 71 Luật Xử lý vi phạm hành chính).

5. Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.

III. KỸ NĂNG TỔ CHỨC THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT

Như đã đề cập ở trên, thi hành quyết định xử phạt là giai đoạn kết thúc của quá trình thực hiện thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng như trong thực tế, khi phát hiện vi phạm hành chính, thông thường nếu cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt chứng kiến tại chổ và thì phải tiến hành ngay tại nơi xảy ra vi phạm một số động tác, công việc cần thiết như yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và lập biên bản vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp ngăn chặn, ra quyết định xử phạt tại chỗ (nếu vi phạm đó là cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức hoặc vi phạm xảy ra ở vùng sâu, vùng xa, vùng biển, biên giới, miền núi mà việc đi lại gặp nhiều khó khăn hoặc ngoài giờ hành chính …) và tiến hành ngay các thủ tục yêu cầu đối tượng thi hành quyết định xử phạt. Đối với vụ việc không thuộc trường hợp ra quyết định xử phạt tại chỗ thì cần tiến hành đầy đủ các bước thuộc về quy trình, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính pháp luật quy định trước khi ra quyết định xử phạt. Sau khi quyết định xử phạt được ban hành, người có thẩm quyền phải tổ chức thi hành quyết định xử phạt theo cách thức sau:

1. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp không lập biên bản vi phạm hành chính

1.1. Cơ sở pháp lý, điều kiện áp dụng

- Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức. Khi tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp không lập biên bản vi phạm hành chính, người có thẩm quyền cần căn cứ vào các quy định chủ yếu sau đây:

- Điều 56, Điều 69, Điều 73, Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

- Điều 10 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).

1.2. Cách thức, trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện:

Đối với trường hợp tổ chức thi hành quyết định xử phạt không lập biên bản vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt tại chỗ và tổ chức thi hành ngay quyết định xử phạt.

Bước 1. Ban hành quyết định xử phạt và giao cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt (01 bản).

Quyết định xử phạt tại chỗ (Mẫu MQĐ01) phải bảo đảm các nội dung cơ bản: ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ tên, địa chỉ của cá nhân vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm xảy ra vi phạm; chứng cứ và các tình tiết liên quan đến việc giải quyết vi phạm; họ tên, chức vụ của người ra quyết định xử phạt; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng…

- Lưu ý 1: Trường hợp người chưa thành niên bị xử phạt cảnh cáo thì quyết định xử phạt còn được gửi cho cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó.

- Lưu ý 2: Trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt.

Bước 2: Cá nhân, tổ chức vi phạm nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt.

Lưu ý: Trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm không có khả năng nộp tiền phạt tại chỗ thì trong thời hạn 10 ngày phải nộp tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước ghi trong quyết định xử phạt.

Đối với trường hợp này, người có thẩm quyền xử phạt có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại điểm c khoản 1 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt.

Bước 3. Người có thẩm quyền xử phạt thu tiền phạt và giao chứng từ thu tiền phạt cho cá nhân, tổ chức nộp tiền phạt

Sau khi thu tiền phạt, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải nộp tiền phạt trực tiếp tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thu tiền phạt.

2. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp có lập biên bản vi phạm hành chính

2.1. Cơ sở pháp lý, điều kiện áp dụng

Luật Xử lý vi phạm hành chính không có quy định cụ thể về các vụ việc vi phạm thuộc trường hợp ban hành quyết định xử phạt có lập biên bản vi phạm hành chính mà thiết kế theo phương pháp loại trừ: xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức không thuộc trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 56 của Luật Xử lý vi phạm hành chính (Điều 57 Luật Xử lý vi phạm hành chính). Cùng với Luật Xử lý vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn Luật cũng quy định việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt có lập biên bản đối với các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, cụ thể như sau:

- Luật Xử lý vi phạm hành chính: Điều 57, Điều 58, Điều 63, Điều 65, từ Điều 71 đến Điều 85 của Luật.

- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 97/2017/NĐ-CP): từ Điều 7 đến Điều 12 của Nghị định.

- Các Thông tư hướng dẫn Luật, Nghị định (Thông tư số 153/2013/TT-BTC, Thông tư số 105/2014/TT-BTC …)

Căn cứ các quy định nêu trên, có thể xác định các trường hợp xử phạt vi phạm hành chính phải lập biên bản vi phạm hành chính bao gồm:

(i) Trường hợp thứ nhất là trong quyết định xử phạt có hình thức phạt tiền mà mức phạt trên 250.000 đồng đối với cá nhân, trên 500.000 đồng đối với tổ chức;

(ii) Trường hợp thứ hai là trong quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; tước quyền sử dụng có thời hạn giấy phép, chứng chỉ hành nghề; đình chỉ hoạt động có thời hạn; hình thức xử phạt trục xuất và biện pháp khắc phục hậu quả;

(iii) Trường hợp thứ ba là vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật; nghiệp vụ;

(iv) Trường hợp thứ tư là vụ việc vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến (Một số vụ việc cần thiết).

Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng quy định rõ việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản phải được người có thẩm quyền xử phạt lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính. Hồ sơ bao gồm biên bản vi phạm hành chính, quyết định xử phạt hành chính, các tài liệu, giấy tờ có liên quan và phải được đánh bút lục. Hồ sơ phải được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.

Như vậy, khi tổ chức thi hành quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt cần căn cứ các quy định của pháp luật, vào quyết định xử phạt và biên bản vi phạm hành chính, các tài liệu liên quan trong hồ sơ vụ việc vi phạm.

2.2. Cách thức, trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp có lập biên bản vi phạm hành chính phức tạp hơn rất nhiều so với việc tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp không lập biên bản vi phạm hành chính do tính chất mỗi hình thức xử phạt cũng như các biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng đối với từng hành vi vi phạm hành chính tương ứng, cụ thể như sau:

2.2.1. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt có hình thức phạt tiền

Bước 1: Ban hành quyết định xử phạt và gửi cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cơ quan thu tiền phạt và cơ quan liên quan khác (nếu có) quyết định xử phạt để thi hành. Thời hạn gửi là 02 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định xử phạt.

Lưu ý: Quyết định xử phạt được giao trực tiếp hoặc được gửi qua bưu điện bằng hình thức bảo đảm và thông báo cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt biết. Đối với trường hợp quyết định được giao trực tiếp mà cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình không nhận quyết định thì người có thẩm quyền lập biên bản về việc không nhận quyết định có xác nhận của chính quyền địa phương và được coi là quyết định đã được giao. Đối với trường hợp gửi qua đường bưu điện bằng hình thức bảo đảm, nếu sau thời hạn 10 ngày, kể từ ngày quyết định xử phạt đã được gửi qua đường bưu điện đến lần thứ ba mà bị trả lại do cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình không nhận; quyết định xử phạt đã được niêm yết tại nơi cư trú của cá nhân, trụ sở của tổ chức bị xử phạt hoặc có căn cứ cho rằng người vi phạm trốn tránh không nhận quyết định xử phạt thì được coi là quyết định đã được giao.

Bước 2: Cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt. Thời hạn nộp tiền phạt là 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt.

Lưu ý 1: Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính bị phạt tiền phải nộp tiền phạt một lần (trừ trường hợp đủ điều kiện nộp phạt nhiều lần theo quy định tại Điều 79 Luật Xử lý vi phạm hành chính).

Lưu ý 2: Nếu quá thời hạn 10 ngày mà đối tượng vi phạm không nộp tiền phạt thì sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt và cứ mỗi ngày chậm nộp phạt thì cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp thêm 0,05% trên tổng số tiền phạt chưa nộp.

Lưu ý 3: Đối với khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, miền núi mà việc đi lại gặp khó khăn thì cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền phạt cho người có thẩm quyền xử phạt. Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm thu tiền phạt tại chỗ và nộp vào Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước trong thời hạn không quá 07 ngày, kể từ ngày thu tiền phạt.

Trường hợp xử phạt trên biển hoặc ngoài giờ hành chính, người có thẩm quyền xử phạt được thu tiền phạt trực tiếp và phải nộp vào Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày đến bờ hoặc ngày thu tiền phạt.

Bước 3: Người thu tiền phạt có trách nhiệm giao chứng từ thu tiền phạt cho cá nhân, tổ chức nộp phạt

Lưu ý: Mọi trường hợp thu tiền phạt, người thu tiền phạt có trách nhiệm giao chứng từ thu tiền phạt cho cá nhân, tổ chức nộp phạt.

2.2.2. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt có hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn

Bước 1: Người có thẩm quyền xử phạt thu giữ, bảo quản giấy phép, chứng chỉ hành nghề (trong thời gian bị tước).

Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải giao nộp giấy phép, chứng chỉ hành nghề cho người có thẩm quyền trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt. Trường hợp quyết định xử phạt có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó.

Lưu ý 1: Thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề không phụ thuộc vào cơ quan, người đã cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề mà chỉ thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Vì vậy, khi tổ chức thi hành hình thức xử phạt này theo quyết định xử phạt, người có thẩm quyền cần thực hiện theo quy định pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Lưu ý 2: Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, người có thẩm quyền xử phạt phải có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc thi hành quyết định xử phạt của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bảo đảm rằng các cơ sở này thực hiện nghiêm túc quyết định xử phạt.

Lưu ý 3: Trường hợp người có thẩm quyền xử phạt thực hiện việc tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt thì việc tạm giữ này phải chấm dứt ngay sau khi quyết định xử phạt được thi hành. Việc tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong thời gian chờ ra quyết định xử phạt không làm ảnh hưởng quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề của cá nhân, tổ chức đó vì thời điểm hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có hiệu lực được tính kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành, không phải thời điểm phát hiện vi phạm hành chính và tiến hành tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Bước 2: Thông báo cho cơ quan đã cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, người có thẩm quyền ra quyết định phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan, người đã cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề biết theo dõi, quản lý.

Lưu ý 1: Sau khi tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có khả năng thực tế gây hậu quả tới tính mạng, sức khỏe con người, môi trường thì người có thẩm quyền phải thông báo bằng văn bản việc tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn cho cơ quan có liên quan biết (tùy từng vụ việc).

Lưu ý 2: Trường hợp phát hiện giấy phép, chứng chỉ hành nghề được cấp không đúng thẩm quyền hoặc có nội dung trái pháp luật thì người có thẩm quyền phải thu hồi ngay theo thẩm quyền, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề đó biết; trường hợp không thuộc thẩm quyền thu hồi thì phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền để xử lý.

Lưu ý 3: Trường hợp phát hiện giấy phép, chứng chỉ, giấy đăng ký hoạt động bị cố ý tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung thì người có thẩm quyền xử phạt tịch thu và thông báo cho cơ quan đã cấp giấy phép, chứng chỉ, giấy đăng ký hoạt động bị tịch thu biết.

Bước 3: Giao lại giấy phép, chứng chỉ hành nghề cho cá nhân, tổ chức đã bị tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề sau khi đã chấp hành xong quyết định xử phạt

2.2.3. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt có hình thức đình chỉ hoạt động có thời hạn

Bước 1: Người có thẩm quyền xử phạt ban hành quyết định xử phạt có hình thức đình chỉ hoạt động có thời hạn

Lưu ý: Sau khi áp dụng hình thức đình chỉ hoạt động có thời hạn, nếu cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có khả năng thực tế gây hậu quả tới tính mạng, sức khỏe con người, môi trường thì người có thẩm quyền phải thông báo bằng văn bản về việc áp dụng hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn cho các cơ quan có liên quan (tùy từng vụ việc để lựa chọn cơ quan liên quan cho phù hợp).

Bước 2: Dừng một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác của cá nhân, tổ chức được ghi trong quyết định xử phạt.

Lưu ý 1: Kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành, cá nhân, tổ chức vi phạm phải dừng ngay một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác ghi trong quyết định xử phạt.

Lưu ý 2: Trong thời gian bị đình chỉ hoạt động có thời hạn, cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ không được tiến hành các hoạt động ghi trong quyết định xử phạt đã ban hành.

Bước 3: Người có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc thi hành hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động của cá nhân, tổ chức vi phạm.

2.2.4. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt có hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính

Bước 1: Lập biên bản về tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính

Biên bản về việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được lập nhằm mục đích thi hành quyết định xử phạt đã ban hành (trong đó có hình thức xử phạt tịch thu) hoặc quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Nội dung biên bản này phải có các nội dung cơ bản sau đây:

(i) Ghi rõ tên, số lượng, chủng loại, số đăng ký (nếu có), tình trạng, chất lượng của vật, tiền, hàng hóa, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu.

(ii) Phải có chữ ký của người tiến hành tịch thu, người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức bị xử phạt và người chứng kiến; trường hợp người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức bị xử phạt vắng mặt thì phải có hai người chứng kiến.

Lưu ý 1: Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay trước mặt người bị xử phạt, đại diện tổ chức bị xử phạt hoặc người chứng kiến. Việc niêm phong phải được ghi nhận vào biên bản.

Lưu ý 2: Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đang bị tạm giữ, người có thẩm quyền xử phạt thấy tình trạng tang vật, phương tiện có thay đổi so với thời điểm ra quyết định tạm giữ thì phải lập biên bản về những thay đổi này; biên bản phải có chữ ký của người lập biên bản, người có trách nhiệm tạm giữ và người chứng kiến.

Bước 2: Quản lý, bảo quản, chuyển giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu

Việc quản lý, bảo quản, chuyển giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu thực hiện theo Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 03/10/2013 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ; tịch thu theo thủ tục hành chính (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 31/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ). Đối với công việc này, người/cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý, bảo quản có vai trò trách nhiệm chính nên cần lưu ý các nội dung sau đây:

Một là, khi tiếp nhận tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, người được giao nhiệm vụ quản lý, bảo quản phải:

(i) Kiểm tra quyết định xử phạt hoặc quyết định tịch thu, biên bản tịch thu và các giấy tờ liên quan khác;

(ii) So sánh, đối chiếu tang vật, phương tiện bị tịch thu với biên bản tịch thu và bảng thống kê về tên hàng hóa, số lượng, chất lượng, khối lượng, chủng loại, nhãn hiệu, xuất xứ; tình trạng niêm phong (nếu có);

(iii) Vào sổ theo dõi và yêu cầu bên giao ký vào sổ.

Hai là, trong quá trình bảo quản, quản lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, những người có trách nhiệm phải thực hiện đúng chế độ  quản lý, bảo quản tang vật, phải phân loại từng tang vật, phương tiện để bố trí, sắp xếp theo đúng vị trí, thuận tiện cho công tác quản lý, bảo quản.

Ba là, khi chuyển, bàn giao tang vật, phương tiện bị tịch thu, người được giao nhiệm vụ quản lý, bảo quản phải:

(i) Kiểm tra quyết định chuyển tang vật, phương tiện, kiểm tra Chứng minh minh nhân dân và giấy tờ khác có liên quan của người đến nhận;

(ii) Yêu cầu người đến nhận tang vật, phương tiện đối chiếu với biên bản tạm giữ hoặc biên bản tịch thu để kiểm tra về chủng loại, số lượng, khối lượng, chất lượng, đặc điểm, hiện trạng của tang vật, phương tiện đã bị tạm giữ, tịch thu dưới sự chứng kiến của cán bộ quản lý.

Bốn là, việc chuyển, bàn giao tang vật, phương tiện bị tịch thu phải được lập thành biên bản trong đó nêu rõ số lượng, chất lượng, khối lượng, chủng loại, nhãn hiệu, xuất xứ; tình trạng của tang vật, phương tiện. Biên bản được lập thành hai bản có chữ ký của bên giao và bên nhận, mỗi bên giữ mỗi bản.

Lưu ý 1: Trường hợp người có thẩm quyền xử phạt hiện đã tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nhưng tang vật, phương tiện này không thuộc diện tịch thu thì phải trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng. Theo đó, đây không phải là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc diện bị tịch thu. Việc trả lại tang vật, phương tiện bị tạm giữ phải được lập thành biên bản (Mẫu MBB08 ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).

Lưu ý 2: Tang vật, phương tiện khi đã được chuyển giao hoặc trả lại thì người nhận tang vật, phương tiện phải chịu trách nhiệm về sự mất mát, thay đổi đối với tang vật, phương tiện đó.

Bước 3: Xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, cơ quan có thẩm quyền phải xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:

(i) Đối với tang vật vi phạm hành chính là tiền Việt Nam, ngoại tệ, chứng chỉ có giá, vàng, bạc, đá quý, kim loại quý thì phải nộp vào ngân sách nhà nước;

(ii) Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã được cấp có thẩm quyền ra quyết định chuyển giao cho cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng thì cơ quan đã ra quyết định tịch thu chủ trì, phối hợp với cơ quan tài chính tổ chức chuyển giao cho cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng. Theo đó, giấy tờ, tài liệu, chứng từ liên quan tới tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cũng chuyển cho cơ quan được giao quản lý, sử dụng tài sản;

(iii) Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là ma túy, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, vật có giá trị lịch sử, giá trị văn hoá, bảo vật quốc gia, cổ vật, hàng lâm sản quý hiếm, vật thuộc loại cấm lưu hành và tài sản khác thì chuyển giao cho cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành để quản lý, xử lý theo quy định của pháp luật;

Các trường hợp (i) (ii) (iii) nêu trên đây, cơ quan quyết định tịch thu lập biên bản nộp, bàn giao tang vật, phương tiện. Trường hợp chuyển tang vật, phương tiện đó cho cơ quan quản lý chuyên ngành hoặc hội đồng bán đấu giá thì người quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện bị tịch thu phải lập biên bản về số lượng, chất lượng, khối lượng, chủng loại, nhãn hiệu, xuất xứ; tình trạng của tang vật, phương tiện. Biên bản được lập thành hai bản có chữ ký của bên giao và bên nhận, mỗi bên giữ mỗi bản. Đối với tang vật, phương tiện bị tịch thu đã được cấp có thẩm quyền ra quyết định chuyển giao cho cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng thì cơ quan đã ra quyết định tịch thu chủ trì, phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp tổ chức chuyển giao cho cơ quan được giao quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.

(iv) Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu không thuộc trường hợp (i) (ii) (iii) nêu trên thì tiến hành thuê tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi xảy ra hành vi vi phạm để thực hiện việc bán đấu giá. Sau khi đã ký hợp đồng bán đấu giá tài sản, cơ quan đã ra quyết định tịch thu tiến hành chuyển giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và lập biên bản chuyển giao. Biên bản phải ghi rõ ngày, tháng, năm chuyển giao; người chuyển giao; người nhận chuyển giao; số lượng, tình trạng tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu; trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện bị tịch thu để bán đấu giá.

Trong trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu là hàng hóa cồng kềnh hoặc có số lượng lớn, thì tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp đã được thuê bán đấu giá tiếp tục ký hợp đồng bảo quản tài sản với nơi đang giữ tang vật, phương tiện đó. Địa điểm tổ chức bán đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.

Lưu ý 1: Giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá khi làm thủ tục chuyển giao được xác định theo Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Trường hợp giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã được xác định có sự thay đổi tại thời điểm chuyển giao thì cơ quan ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính quyết định thành lập hội đồng để định giá tài sản trước khi chuyển giao. Thành phần hội đồng định giá theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Lưu ý 2: Trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá thì thành lập hội đồng để bán đấu giá.

(v) Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu nhưng không còn giá trị sử dụng hoặc không bán đấu giá được thì cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định tịch thu phải lập hội đồng xử lý gồm đại diện các cơ quan nhà nước hữu quan. Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu phải được lập thành biên bản có chữ ký của các thành viên hội đồng xử lý. Phương thức, trình tự, thủ tục xử lý tài sản thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.

Lưu ý: Chi phí lưu kho, phí bến bãi, phí bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, phí bán đấu giá và chi phí khác phù hợp với quy định của pháp luật được trừ vào tiền bán tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu. Tiền thu được từ bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, sau khi trừ các chi phí thực tế nêu trên và phù hợp với quy định của pháp luật, phải được nộp vào ngân sách nhà nước.

2.2.5. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt có hình thức trục xuất

Điều 27 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 02/10/2013 của Chính phủ quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất, thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo đề nghị trục xuất của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Công an cấp tỉnh hoặc phòng nghiệp vụ thuộc Cục Quản lý xuất nhập cảnh, chuyển đến Giám đốc Công an cấp tỉnh, Cục trưởng Cục Quản lý xuất nhập cảnh xem xét, ra quyết định xử phạt trục xuất đối với người nước ngoài vi phạm hành chính. Sau khi có quyết định trục xuất, người/cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định xử phạt trục xuất phải thực hiện các công việc sau đây:

Bước 1: Gửi quyết định xử phạt trục xuất cho người bị trục xuất và Bộ Ngoại giao Việt Nam, cơ quan, lãnh sự, cơ quan đại diện ngoại giao của nước mà người bị trục xuất là công dân hoặc nước mà người đó cư trú cuối cùng trước khi đến Việt Nam trước khi thi hành.

Lưu ý 1: Quyết định xử phạt trục xuất được thể hiện bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh.

Lưu ý  2: Người bị trục xuất phải nhận quyết định trục xuất chậm nhất 48 giờ trước khi thi hành.

Bước 2: Quản lý người nước ngoài trong thời gian làm thủ tục trục xuất

Khoản 1 Điều 30 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP quy định các trường hợp phải thực hiện việc quản lý người nước ngoài trong thời gian làm thủ tục trục xuất đó là:

(i) Khi có căn cứ cho rằng, nếu không áp dụng biện pháp cần thiết để quản lý thì người đó sẽ trốn tránh hoặc cản trở việc thi hành quyết định xử phạt trục xuất;

(ii)  Để ngăn chặn người đó tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Theo đó, Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Quản lý xuất nhập cảnh hoặc trưởng phòng quản lý xuất, nhập cảnh Công an cấp tỉnh (nơi lập hồ sơ đề nghị trục xuất) đề xuất với Cục trưởng Cục Quản lý xuất nhập cảnh hoặc Giám đốc Công an cấp tỉnh quyết định áp dụng các biện pháp quản lý đối với người nước ngoài trong thời gian làm thủ tục trục xuất. Các biện pháp này có thể là:

(i) Hạn chế việc đi lại của người bị quản lý;

(ii) Chỉ định chỗ ở của người bị quản lý;

(iii) Tạm giữ hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân khác thay hộ chiếu;

(iv) Bắt buộc lưu trú tại cơ sở lưu trú do Bộ Công an quản lý.

Lưu ý 1: Không được sử dụng nhà tạm giữ hình sự, trại tạm giam, trại giam để quản lý người nước ngoài trong thời gian làm thủ tục trục xuất. Chế độ đối với người bị trục xuất trong thời gian làm thủ tục trục xuất tại cơ sở lưu trú thực hiện theo Điều 31 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP.

Lưu ý 2: Người bị trục xuất phải lưu trú tại cơ sở lưu trú do Bộ Công an quản lý nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Người bị trục xuất không có hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế hộ chiếu, chưa có đủ các điều kiện cần thiết để thực hiện việc trục xuất (vé máy bay, thị thực...);

- Không có nơi thường trú, tạm trú;

- Vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP hoặc không chấp hành các biện pháp quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền;

- Có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ cho rằng người đó có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian chờ xuất cảnh;

- Có hành vi bỏ trốn, chuẩn bị bỏ trốn hoặc hành vi khác gây khó khăn cho việc thi hành quyết định xử phạt trục xuất;

- Mắc bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm theo quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm;

- Tự nguyện xin vào cơ sở lưu trú.

Bước 3: Trục xuất đối tượng vi phạm ra khỏi lãnh thổ Việt Nam

Quyết định trục xuất là văn bản quan trọng để tổ chức thi hành hình thức xử phạt trục xuất. Căn cứ vào quyết định trục xuất, cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định trục xuất đưa người vi phạm đến cửa khẩu thi hành quyết định xử phạt trục xuất để làm thủ tục đến nơi bị trục xuất.

Lưu ý 1: Hoãn thi hành quyết định xử phạt trục xuất

Người bị trục xuất được hoãn thi hành quyết định xử phạt trục xuất trong những trường hợp sau đây:

(i) Bị bệnh nặng, phải cấp cứu hoặc vì lý do sức khoẻ khác không thể thực hiện được quyết định xử phạt trục xuất có chứng nhận của bệnh viện hoặc trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên hoặc các trường hợp bất khả kháng khác;

(ii) Phải thực hiện nghĩa vụ về dân sự, hành chính, kinh tế theo quy định của pháp luật.

Trên cơ sở đề nghị của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Công an cấp tỉnh, Giám đốc Công an cấp tỉnh xem xét, ra quyết định hoãn thi hành quyết định xử phạt trục xuất. Trên cơ sở đề nghị của trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Cục trưởng Cục Quản lý xuất nhập cảnh xem xét, ra quyết định hoãn thi hành quyết định xử phạt trục xuất.

Khi điều kiện hoãn không còn thì quyết định xử phạt trục xuất được tiếp tục thi hành.

Lưu ý 2: Thi hành quyết định xử phạt trục xuất trong trường hợp người nước ngoài bị chết trong thời gian làm thủ tục trục xuất

Để xử lý trường hợp này, Cục trưởng Cục Quản lý xuất nhập cảnh hoặc Giám đốc Công an cấp tỉnh nơi lập hồ sơ đề nghị trục xuất phải báo ngay cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức là đối tác phía Việt Nam (nếu có); đồng thời, thông báo cho Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự hoặc Sở Ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh) để thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của nước mà người đó là công dân biết để phối hợp giải quyết.

2. Việc đưa thi thể người nước ngoài bị chết trong thời gian làm thủ tục trục xuất về nước và các chi phí cho việc mai táng, đưa thi thể về nước do thân nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc cơ quan ngoại giao, lãnh sự của nước mà người đó là công dân chịu trách nhiệm.

3. Trong trường hợp không thực hiện được theo các cách đó thì Cục Quản lý xuất nhập cảnh hoặc Công an cấp tỉnh nơi lập hồ sơ đề nghị trục xuất chịu trách nhiệm thực hiện.

Lưu ý 3: Giải quyết trường hợp người bị trục xuất chống đối, bỏ trốn, không chấp hành quyết định xử phạt trục xuất

Để xử lý trường hợp này, người có thẩm quyền thuộc cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định xử phạt trục xuất có thể áp dụng giải thích quy định của pháp luật, yêu cầu họ chấp hành quyết định; trường hợp cần thiết có thể sử dụng vũ lực, trói, khóa tay, chân, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật để khống chế vô hiệu hóa hành vi chống đối của người bị áp giải. Trường hượp người vi phạm bỏ trốn thì phải lập biên bản có chữ ký của người chứng kiến; nếu không có người chữ ký thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.  Ngoài ra người có thẩm quyền có thể áp dung biện pháp áp giải đến chổ ở được chỉ định, cơ sở lưu trú để quản lý, giám sát hoặc buộc rời khỏi lãnh thổ Việt Nam.

2.2.6. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt có biện pháp khắc phục hậu quả

Bước 1: Xác định biện pháp khắc phục hậu quả theo quyết định xử phạt hoặc quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả

Biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể và thời hạn thi hành biện pháp khắc phục hậu quả được thực hiện theo quyết định xử phạt (mẫu MQĐ02) hoặc trong quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả (mẫu MQĐ13).

Bước 2: Xác định cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả

Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có trách nhiệm thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định theo quy định của pháp luật và phải chịu mọi chi phí cho việc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đó.

Trường hợp không xác định được đối tượng vi phạm hành chính (theo quy định tại khoản 2 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính) hoặc cá nhân chết, mất tích hoặc tổ chức bị giải thể, phá sản mà không có tổ chức nào tiếp nhận chuyển giao quyền và nghĩa vụ chính (theo quy định tại Điều 75 Luật Xử lý vi phạm hành chính) thì cơ quan nơi người có thẩm quyền xử phạt đang thụ lý hồ sơ vụ vi phạm hành chính phải tổ chức các biện pháp khắc phục hậu quả theo quyết định xử phạt hoặc quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Trường hợp này, chi phí cho việc tổ chức thi hành biện pháp khắc phục hậu quả do cơ quan người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định thực hiện được lấy từ nguồn ngân sách dự phòng cấp cho cơ quan đó.

Trong trường hợp khẩn cấp, cần khắc phục ngay hậu quả để kịp thời bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông thì người cơ quan nơi người có thẩm quyền xử phạt đang thụ lý hồ sơ vụ vi phạm hành chính tổ chức thi hành biện pháp khắc phục hậu quả. Trường hợp này, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải hoàn trả kinh phí cho cơ quan đã thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả, nếu không hoàn trả thì bị cưỡng chế thực hiện.

Bước 3: Người có thẩm quyền ra quyết định thực hiện việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thi hành biện pháp khắc phục hậu quả do cá nhân, tổ chức thực hiện

Trong nhiều trường hợp, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính gửi báo cáo kết quả thi hành biện pháp khắc phục hậu quả về cơ quan/người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Kết quả thi hành biện pháp khắc phục hậu quả là cơ sở cho người có thẩm quyền xem xét, quyết định một số công việc tiếp theo.

III. KỸ NĂNG TỔ CHỨC THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ

1. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp nộp tiền phạt nhiều lần

Việc nộp tiền phạt nhiều lần được áp dụng khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 79 Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể:

(i) Bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân và từ 200.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức

(ii) Đang gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế và có đơn đề nghị nộp tiền phạt nhiều lần (Đơn đề nghị của cá nhân phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc xác nhận hoàn cảnh khó khăn đặc biệt về kinh tế; đối với đơn đề nghị của tổ chức phải được xác nhận của cơ quan thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp).

Người đã ra quyết định phạt tiền có quyền quyết định việc nộp tiền phạt nhiều lần. Quyết định về việc nộp tiền phạt nhiều lần phải bằng văn bản (mẫu MQĐ05).

Thời hạn nộp tiền phạt nhiều lần không quá 06 tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực; số lần nộp tiền phạt tối đa không quá 03 lần.

Mức nộp phạt lần thứ nhất tối thiểu là 40% tổng số tiền phạt.

2. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp được hoãn, giảm, miễn tiền phạt

- Trường hợp hoãn thi hành quyết định xử phạt:

Quyết định phạt tiền có thể được hoãn thi hành trong trường hợp cá nhân bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng trở lên đang gặp khó khăn đặc biệt, đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, bệnh hiểm nghèo, tai nạn và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc.

 Về thủ tục, cá nhân phải có đơn đề nghị hoãn chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính gửi cơ quan của người đã ra quyết định xử phạt. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được đơn, người đã ra quyết định xử phạt xem xét quyết định hoãn thi hành quyết định xử phạt đó.

Thời hạn hoãn thi hành quyết định xử phạt không quá 03 tháng, kể từ ngày có quyết định hoãn (mẫu MQĐ03).

- Giảm, miễn tiền phạt:

Cá nhân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 76 của Luật Xử lý vi phạm hành chính mà không có khả năng thi hành quyết định thì có thể được xem xét giảm, miễn phần còn lại tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt.

Về thủ tục: cá nhân xin giảm, miễn phải có đơn đề nghị giảm, miễn phần còn lại hoặc toàn bộ tiền phạt gửi người đã ra quyết định xử phạt. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được đơn, người đã ra quyết định xử phạt phải chuyển đơn kèm hồ sơ vụ việc đến cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được đơn, cấp trên trực tiếp phải xem xét quyết định và thông báo cho người đã ra quyết định xử phạt, người có đơn đề nghị giảm, miễn biết; nếu không đồng ý với việc giảm, miễn thì phải nêu rõ lý do (mẫu MQĐ04).

Lưu ý: Đối với trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ra quyết định xử phạt thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đó xem xét, quyết định việc giảm, miễn tiền phạt.

3. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp người bị xử phạt chết, mất tích, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản

Điều 75 Luật Xử lý vi phạm hành chính và Điều 9 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định trường hợp quyết định xử phạt đã được ban hành, vẫn còn thời hiệu thi hành nhưng người bị xử phạt chết, mất tích, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản thì người có thẩm quyền không tổ chức thi hành quyết định phạt tiền nhưng vẫn tổ chức thi hành hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định, cụ thể như sau:

- Người đã ra quyết định xử phạt phải ra quyết định thi hành một phần quyết định xử phạt trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày người bị xử phạt chết được ghi trong giấy chứng tử; người bị mất tích được ghi trong quyết định tuyên bố mất tích; tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản được ghi trong quyết định giải thể, phá sản. Quyết định thi hành gồm các nội dung sau:

(i) Đình chỉ thi hành các hình thức xử phạt, lý do đình chỉ;

(ii) Hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả tiếp tục thi hành.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành một phần quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định này phải được gửi cho cá nhân, tổ chức có liên quan.

- Về trách nhiệm thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp này:

+ Đối với hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, thì cá nhân, tổ chức đang quản lý tang vật, phương tiện vi phạm phải có trách nhiệm thi hành.

+ Đối với biện pháp khắc phục hậu quả, thì cá nhân là người được hưởng tài sản thừa kế được xác định theo quy định của pháp luật dân sự về thừa kế phải tiếp tục thi hành phần còn lại của quyết định xử phạt.

+ Đối với tổ chức xử phạt bị giải thể, phá sản, thì quyết định thi hành một phần quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải được gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc giải thể, phá sản; người đại diện theo pháp luật của tổ chức bị giải thể, phá sản để thi hành.

- Thủ tục thi hành phần quyết định xử phạt trong trường hợp này thực hiện theo quy định tại Mục 2 Chương III Phần thứ hai Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Lưu ý: Trường hợp quá thời hạn thi hành quyết định mà cá nhân, tổ chức có trách nhiệm thi hành không thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả thì cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt đang thụ lý hồ sơ vụ vi phạm hành chính phải tổ chức thực hiện. Chi phí thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả được khấu trừ từ tài sản thừa kế mà người bị xử phạt để lại hoặc tài sản còn lại của tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản và được coi là một trong những khoản chi phí ưu tiên thanh toán (nếu có).

Trường hợp người bị xử phạt chết không để lại tài sản thừa kế, tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản không còn tài sản, thì việc thi hành biện pháp khắc phục hậu quả được thực hiện theo quy định tại Khoản 4 Điều 85 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Người thừa kế của người bị xử phạt chết, mất tích, người đại diện theo pháp luật của tổ chức bị xử phạt giải thể, phá sản có quyền giám sát, khiếu nại khởi kiện đối với các chi phí tổ chức thực hiện và việc thanh toán chi phí thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Khoản 4 Điều 85 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

4. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp chuyển quyết định xử phạt

Điều 71 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định hai trường hợp chuyển quyết định xử phạt để tổ chức thi hành đó là:

(i) Trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm hành chính ở địa bàn cấp tỉnh này nhưng cư trú, đóng trụ sở ở địa bàn cấp tỉnh khác và không có điều kiện chấp hành quyết định xử phạt tại nơi bị xử phạt thì quyết định xử phạt được chuyển đến cơ quan cùng cấp nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để tổ chức thi hành; nếu nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở không có cơ quan cùng cấp thì quyết định xử phạt được chuyển đến Ủy ban nhân dân cấp huyện để tổ chức thi hành.

(ii) Trường hợp vi phạm hành chính xảy ra ở địa bàn cấp huyện này nhưng cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở ở địa bàn cấp huyện khác và thuộc phạm vi một tỉnh ở miền núi, hải đảo, vùng xa xôi, hẻo lánh mà việc đi lại gặp khó khăn và cá nhân, tổ chức vi phạm không có điều kiện chấp hành quyết định xử phạt tại nơi bị xử phạt thì quyết định xử phạt được chuyển đến cơ quan cùng cấp nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để tổ chức thi hành.

Cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các trường hợp nêu trên có trách nhiệm chuyển toàn bộ hồ sơ, giấy tờ liên quan; tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (nếu có) cho cơ quan tiếp nhận quyết định xử phạt để thi hành theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Trường hợp này, người có thẩm quyền trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định xử phạt thực hiện các bước như đã phân tích tại mục 2.2. Cá nhân, tổ chức vi phạm có trách nhiệm trả chi phí vận chuyển hồ sơ, tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

5. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp khiếu nại, khởi kiện

Về nguyên tắc, cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt, nếu quyết định xử phạt có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó. Tuy nhiên, không phải quyết định xử phạt nào được ban hành cũng đều có thể thi hành được ngay, trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền tiếp tục thi hành hay phải tạm dừng thi hành quyết định xử phạt để thực hiện giải quyết việc khiếu nại, khởi kiện đó.

Để xử lý tình huống này, người có thẩm quyền cần căn cứ vào khoản 2 Điều 73 và Điều 15 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, cá nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt, trừ trường hợp trong quá trình giải quyết khiếu nại, khởi kiện nếu xét thấy việc thi hành quyết định xử phạt bị khiếu nại, khởi kiện sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì người giải quyết khiếu nại, khởi kiện phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết khiếu nại, khởi kiện được giải quyết theo quy định của pháp luật.

Các quy định nêu trên cũng được áp dụng đối với trường hợp cá nhân, tổ chức khiếu nại đối với quyết định xử phạt của trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành (trường đoàn thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính thuộc phạm vi, nội dung cuộc thanh tra trong thời hạn thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra). Để xử lý trường hợp khiếu nại quyết định xử phạt của trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành thì thực hiện theo khoản 3a Điều 5 Nghị định 97/2017/NĐ-CP theo hướng: người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết hoặc chỉ đạo người đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính giải quyết theo quy định của pháp luật về thanh tra và khiếu nại.

6. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt (bao gồm cả quyết định xử phạt sửa đổi, bổ sung, ban hành mới) trong trường hợp hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt

Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định xử phạt. Vậy hết thời hạn này thì cơ quan, người có thẩm quyền có được tiếp tục thi hành quyết định xử phạt không?

Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính đã quy định rõ hướng xử lý trường hợp này theo hướng, quá thời hạn 01 năm kể từ ngày ra quyết định xử phạt thì không thi hành quyết định đó nữa, trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 18 Luật Xử lý vi phạm hành chính và Điều 6d Nghị định số 97/2017/NĐ-CP thì trường hợp sửa đổi, bổ sung, ban hành mới quyết định xử phạt thì thời hiệu thi hành quyết định sửa đổi, bổ sung, ban hành mới về xử lý vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ban hành quyết định.

Tuy nhiên, cần lưu ý, nếu quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì không thi hành các hình thức xử phạt khác trong quyết định nhưng vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội.

7. Tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng

Điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định rõ vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; dược; khám bệnh, chữa bệnh; lao động; xây dựng; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo vệ môi trường; thuế; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; đo lường; sản xuất, buôn bán hàng giả mà gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội thì cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm công bố công khai về việc xử phạt.

- Về thủ tục tiến hành: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử phạt thủ trưởng cơ quan, đơn vị của người đã ra quyết định xử phạt gửi văn bản về việc công bố công khai và bản sao quyết định xử phạt vi phạm hành chính đến người phụ trách báo hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan quản lý cấp bộ, cấp sở hoặc của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra vi phạm. Trường hợp việc công bố công khai việc xử phạt không thể thực hiện đúng thời hạn vì những lý do bất khả kháng thì người có thẩm quyền công bố công khai phải báo cáo thủ trưởng cấp trên trực tiếp và công bố công khai việc xử phạt ngay sau khi sự kiện bất khả kháng đã được khắc phục.

Người phụ trách báo hoặc trang thông tin điện tử khi nhận được văn bản đề nghị công khai thông tin có trách nhiệm đăng đầy đủ các nội dung thông tin cần công khai.

  - Nội dung thông tin công bố công khai gồm: Họ, tên, địa chỉ nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm hành chính; hậu quả hoặc ảnh hưởng của hành vi vi phạm; hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả và thời gian thực hiện.

  Thủ trưởng cơ quan, đơn vị nơi người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin công bố công khai; có trách nhiệm đính chính thông tin sai lệch trong vòng 01 ngày làm việc, kể từ thời điểm phát hiện hoặc nhận được yêu cầu đính chính. Chi phí cho việc đính chính do cơ quan, đơn vị của người đã ra quyết định xử phạt chi trả. Người phụ trách báo hoặc trang thông tin điện tử đăng thông tin phải thực hiện việc đăng tin đính chính trong thời hạn 01 ngày làm việc trên trang thông tin điện tử hoặc số báo tiếp theo, kể từ thời điểm nhận được yêu cầu.

Trong trường hợp trang thông tin điện tử hoặc báo đăng không chính xác các thông tin cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt đã cung cấp, thì phải đính chính đúng chuyên mục hoặc vị trí đã đăng thông tin sai lệch trong thời hạn 01 ngày làm việc trên trang thông tin điện tử hoặc số báo tiếp theo và phải chịu chi phí cho việc đính chính./.

CHUYÊN ĐỀ 3

NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN

CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 82/2020/NĐ-CP NGÀY 15/7/2020 CỦA CHÍNH PHỦ

Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp;

hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình;thi hành án dân sự;

phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

 

Ngày 15/7/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Nghị định này thay thế Nghị định số 110/2013/NĐ-CP 24/9/2013 và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ.

I. SỰ CẦN THIẾT, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH THAY THẾ NGHỊ  ĐỊNH SỐ 110/2013/NĐ-CP VÀ NGHỊ  ĐỊNH SỐ 67/2015/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ

1. Cơ sở pháp lý ban hành Nghị định

1.1. Ngày 24/9/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (viết tắt là Nghị định số 110/2013/NĐ-CP) và ngày 14/8/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2015/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (viết tắt là Nghị định số 67/2015/NĐ-CP). Các Nghị định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực này, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

1.2. Tuy nhiên, từ năm 2016 đến nay, một số văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý để ban hành Nghị định đã có sự thay đổi, có văn bản đã được ban hành mới, có văn bản được sửa đổi, bổ sung, dẫn đến nhiều quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 không còn phù hợp, cần phải sửa đổi, bổ sung. Cụ thể:

Trong năm 2016 và 2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua các Luật Đấu giá tài sản, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật Trợ giúp pháp lý.

Cùng với đó, trong các năm 2017 đến 2020, Chính phủ đã ban hành các Nghị định có liên quan đến phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, như:

- Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ quy định về hòa giải thương mại.

- Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ quy định về đăng ký biện pháp bảo đảm.

- Nghị định số 137/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư.

- Nghị định số 08/2020/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại (thay thế các Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP).

Những Luật và Nghị định nêu trên được ban hành với nhiều quy định mới, có nhiều hành vi bị nghiêm cấm. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu, cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, bổ trợ tư pháp để bảo đảm hiệu lực thi hành và sự phù hợp với các quy định của các văn bản pháp luật mới, bảo đảm cơ sở pháp lý và chế tài xử phạt khi có hành vi vi phạm xảy ra.

2. Quan điểm chỉ đạo

Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã được ban hành thay thế Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP dựa trên cơ sở nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo sau:

a) Bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan.

b) Bảo đảm phù hợp với thực tiễn. tính hợp lý và tính khả thi, góp phần đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm hành chính, thực hiện hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tư pháp.

c) Kế thừa những quy định của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP còn phù hợp và đang phát huy hiệu quả trong thực tiễn xã hội.

d). Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; bỏ các quy định không còn phù hợp, bổ sung những quy định trong các luật mới ban hành, như: Luật Đấu giá tài sản, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật Trợ giúp pháp lý.

3. Cơ sở thực tiễn

3.1. Về kết quả thực hiện Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP của Chính phủ

Theo số liệu thống kê của Thanh tra Bộ Tư pháp, từ tháng 11/2013 đến 30/6/2017, Bộ Tư pháp đã ban hành 52 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền là 577.500.000 đồng.

Tại các địa phương (trong đó có Thừa Thiên Huế), Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân các cấp đã ban hành 10.068 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức xử phạt tiền với tổng số tiền là 4.210.661.000 đồng. Ban hành 6.430 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức xử phạt là cảnh cáo.

Đồng thời, có 15/63 tỉnh cũng đã áp dụng 200 biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc nộp lại số tiền thu lợi bất chính; hủy giấy tờ giả, hủy giấy tờ ban hành trái pháp luật; hủy bỏ hợp đồng, giao dịch trái pháp luật; thu hồi bằng cấp giả; hoàn trả tiền thu thừa cho người yêu cầu công chứng...

Các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã ban hành 223 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 92.413.000 đồng.

Tòa án nhân dân các cấp chưa xử phạt vi phạm hành chính trường hợp nào trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

3.2. Những khó khăn, vướng mắc trong quy định và việc thực hiện Nghị định

3.2.1. Về quy định hành vi vi phạm

Bên cạnh những quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công tác xử lý vi phạm hành chính một cách chính xác, đúng nguyên tắc xử lý theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP còn có một số nội dung cách hiểu, cách áp dụng chưa thống nhất hoặc chưa được đồng thuận gây khó khăn cho việc xử lý vi phạm hành chính.

Quy định pháp luật về một số lĩnh vực như bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình chưa rõ ràng, một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn.

Nhiều hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực được thanh tra như luật sư, công chứng, đấu giá tài sản, thi hành án dân sự chưa có chế tài xử phạt.

3.2.2. Về quy định mức phạt tiền trong các lĩnh vực

Mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và  Nghị định số 67/2015/NĐ-CP chưa tương xứng, chưa phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở những năm gần đây và chưa đủ tính răn đe đối với các hành vi vi phạm, dẫn đến tình trạng tuy không phổ biến nhưng nhiều cá nhân, tổ chức hiện đang tồn tại tâm lý chung chấp nhận nộp phạt vi phạm hành chính vẫn có lợi hơn so với phải chấp hành đúng quy định của pháp luật về lĩnh vực đó. Hoặc có một số hành vi vi phạm có tính chất, mức độ giống nhau nhưng lại quy định mức tiền phạt khác nhau là chưa phù hợp. Do đó, cần sửa đổi theo hướng tăng mức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trong các lĩnh vực như luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, thi hành án dân sự.

3.2.3. Việc áp dụng các hình thức xử phạt

Căn cứ theo báo cáo của các địa phương, hình thức xử phạt thường xuyên được áp dụng là hình thức cảnh cáo và phạt tiền, trong đó, hình thức phạt tiền được áp dụng nhiều hơn, tuy nhiên, do mức phạt tiền còn thấp nên việc xử phạt tiền quy định tại các Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP chưa mang tính răn đe cao.

Các hình thức xử phạt: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn được quy định trong Nghị định số 110/2013/NĐ-CP còn ít và thực tiễn cũng ít được áp dụng.

3.2.4. Việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả

Thực tiễn trong thời gian qua, việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng không nhiều, chủ yếu áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả hủy bỏ giấy tờ giả đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hộ tịch.

Nguyên nhân, do hành vi vi phạm phát hiện ít có hành vi vi phạm quy định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Mặt khác, quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả còn bất cập dẫn đến việc thi hành còn khó khăn.

II. BỐ CỤC CỦA NGHỊ ĐỊNH

Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (viết tắt là Nghị định số 82/2020/NĐ-CP) gồm 9 Chương, 91 điều, cụ thể:

Chương I - Những quy định chung, gồm 04 điều (từ Điều 1 đến Điều 4).

Chương II - Hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp gồm 28 điều (từ Điều 5 đến Điều 33), chia làm 08 mục quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong các hoạt động: luật sư; tư vấn pháp luật; công chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; hòa giải thương mại; thừa phát lại.

Chương III - Hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực hành chính tư pháp gồm 24 điều (từ Điều 34 đến Điều 57), chia làm 06 mục quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong các hoạt động: chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp; phổ biến, giáo dục pháp luật; hợp tác quốc tế về pháp luật; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; bồi thường nhà nước.

Chương IV - Hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình gồm 06 điều (từ Điều 58 đến Điều 63).

Chương V - Hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực thi hành án dân sự gồm 02 điều (từ Điều 64 đến Điều 65).

Chương VI - Hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã gồm 15 điều (từ Điều 66 đến Điều 80).

Chương VII - Các hành vi vi phạm khác, gồm 01 điều (Điều 81) quy định hành vi làm giả tài liệu hoặc sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Chương VIII - Thẩm quyền lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính, gồm 07 điều (từ Điều 82 đến Điều 88).

Chương IX - Điều khoản thi hành gồm 03 điều (Điều 89 đến Điều 91).

III. NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 82/2020/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ

1. Về phạm vi điều chỉnh:  Nghị định quy định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động: (1) hòa giải thương mại, (2) thừa phát lại; (3) bồi thường nhà nước.

Phạm vi của Nghị định vẫn quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong 05 lĩnh vực, gồm hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự và phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực cụ thể, Nghị định có bổ sung thêm một số hoạt động so với Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.Cụ thể: trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp bổ sung thêm hoạt động hòa giải thương mại, thừa phát lại; trong lĩnh vực hành chính tư pháp bổ sung thêm hoạt động bồi thường nhà nước.

1.1. Quy định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hòa giải thương mại (Mục 7 Chương II, từ Điều 28 đến Điều 30).

Điều 28. Hành vi vi phạm quy định về việc thành lập, đăng ký hoạt động trung tâm hòa giải thương mại, chi nhánh trung tâm hòa giải thương mại, tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam.

Điều 29. Hành vi vi phạm về hoạt động của trung tâm hòa giải thương mại, chi nhánh của trung tâm hòa giải thương mại; chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam.

Điều 30. Hành vi vi phạm quy định về hoạt động của hòa giải viên thương mại.

1.2. Quy định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thừa phát lại (Mục 8 Chương II, từ Điều 31 đến Điều 33 và Điều 65 Chương V: Hành vi vi phạm quy định của thừa phát lại trong lĩnh vực thi hành án dân sự).

Điều 31. Hành vi vi phạm về hồ sơ đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, đăng ký hành nghề thừa phát lại; hồ sơ đề nghị thành lập, chuyển đổi, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng, đăng ký hoạt động, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động văn phòng thừa phát lại.

Điều 32. Hành vi vi phạm quy định về hành nghề thừa phát lại.

Điều 33. Hành vi vi phạm quy định về hoạt động của văn phòng thừa phát lại.

1.3. Quy định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động bồi thường nhà nước (Mục 6 Chương III, từ Điều 56 đến Điều 57).

Điều 57. Hành vi vi phạm quy định về hoàn trả.

Điều 56. Hành vi vi phạm quy định về yêu cầu bồi thường và giải quyết yêu cầu bồi thường.

2. Về đối tượng bị xử phạt

Điều 2 của Nghị định đã bổ sung thêm các tổ chức là đối tượng bị xử phạt sau: Tổ chức mà nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng; tổ chức có tài sản đấu giá; chi nhánh, văn phòng đại diện của trung tâm trọng tài; trung tâm hòa giải thương mại; chi nhánh, văn phòng đại diện của trung tâm hòa giải thương mại; tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam; văn phòng thừa phát lại.

3. Về hình thức xử phạt chính

- Về hình thức xử phạt “cảnh cáo”: Nghị định đã bỏ hình thức xử phạt “cảnh cáo” trong một số hoạt động (Luật sư, tư vấn pháp luật, Công chứng, đấu giá tài sản, giám định tư pháp, chứng thực, hộ tịch, giao dịch bảo đảm, hôn nhân và gia đình, quản lý thanh lý tài sản) để phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm;

Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt cảnh cáo tại 40 điều thì hiện nay, trong Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, hình thức xử phạt cảnh cáo chỉ còn quy định tại 08 điều.

- Về hình thức phạt tiền

Nhìn chung, Nghị định đã tăng mức phạt tiền đối với nhiều hành vi vi phạm (tại hầu hết các lĩnh vực, hoạt động). Bên cạnh đó, cũng có những hành vi vi phạm vẫn giữ nguyên mức xử phạt được quy định tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 67/2015/NĐ-CP, thậm chí, có hành vi được quy định giảm mức phạt tiền so với quy định tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 67/2015/NĐ-CP cho phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm.

- Về hình thức xử phạtchính “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn”:

Tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 67/2015/NĐ-CP, hình thức xử phạt “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn” được sử dụng là hình thức xử phạt chính trong các hoạt động luật sư (tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư từ 6 tháng đến 12 tháng), trong hoạt động công chứng (tước quyền sử dụng Thẻ công chứng viên 12 tháng) và trong hoạt động đấu giá tài sản (tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề đấu giá 12 tháng).

Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, đối với hoạt động luật sư, không còn quy định hình thức xử phạt “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn” là hình thức xử phạt chính.

Đối với hoạt động công chứng, hình thức xử phạt “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn” là hình thức xử phạt chính có thời hạn Tước quyền sử dụng được quy định là từ 9 tháng đến 12 tháng (khoản 7 Điều 22).

Đối với hoạt động đấu giá tài sản, hình thức xử phạt “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn” là hình thức xử phạt chính có thời hạn Tước quyền sử dụng được quy định là từ 9 tháng đến 12 tháng (khoản 7 Điều 15).

          - Nghị định quy định mới hình thức xử phạt “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn” là hình thức xử phạt chính đối với hoạt động chứng thực (từ 9 tháng đến 12 tháng – khoản 5 Điều 34).

          - Đối với hoạt động thừa phát lại, Nghị định cũng quy định hình thức xử phạt “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn” là hình thức xử phạt chính đối với hoạt động chứng thực (từ 9 tháng đến 12 tháng).

4. Đối với hình thức xử phạt bổ sung

- Tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, hình thức xử phạt bổ sung chỉ được quy định tại 11 điều (chủ yếu là lĩnh vực bổ trợ tư pháp), nay Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, hình thức xử phạt bổ sung được quy định tại 48 điều (tăng 37 điều). Nếu không tính hình thức xử phạt bổ sung được quy định tại 3 lĩnh vực mới (7 điều), thì Nghị định 82/2020/NĐ-CP đã bổ sung hình thức xử phạt bổ sung đối với 30 điều.

- Quy định mới hình thức xử phạt bổ sung “Đình chỉ hoạt động có thời hạn”  (từ 01-03 tháng; 03 -06 tháng; 06-09 tháng) đối với tổ chức trong các hoạt động công chứng; luật sư; đấu giá tài sản; thừa phát lại; trọng tài thương mại; hòa giải thương mại;con nuôi nước ngoài tại Việt Nam;tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

- Quy định hình thức xử phạt bổ sung “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn” đối với nhiều hành vi vi phạm trong các hoạt động ở các lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp.

5. Về biện pháp khắc phục hậu quả

     - Nghị định số 82/2020/NĐ-CP: Quy định mới 12 biện pháp khắc phục hậu quả nhằm khắc phục một cách triệt để hậu quả các hành vi vi phạm xẩy ra

Nghị định số 110/2013/NĐ-CP chỉ quy định 04 biện pháp khắc phục hậu quả ngoài các biện pháp được quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Nay, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP:

Chỉ giữ lại 02 biện pháp khắc phục hậu quả của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, đó là:

     + Huỷ bỏ kết quả đấu giá tài sản đối với tài sản công;

          + Buộc thu hồi các khoản đã thanh toán hoặc bù trừ không đúng quy định của pháp luật.

- Bỏ đi 02 biện pháp của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP: (1) Hủy bỏ giấy tờ giả; (2) Buộc thu hồi tài sản đã bị tẩu tán, chuyển nhượng không đúng quy định.

Bổ sung 12 biện pháp khắc phục hậu quả mới, gồm:

a) Kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung hoặc giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung;

b) Buộc tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan thực hiện chứng thực thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ liên quan về hợp đồng, giao dịch đã được công chứng, chứng thực;

c) Buộc thu hồi và huỷ bỏ giấy tờ, văn bản, tài liệu, chứng cứ giả;

d) Buộc tổ chức hành nghề công chứngthông báo trên cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp nơi đặt trụ sở về bản dịch đã được công chứng, văn bản đã được chứng thực;

đ) Buộc cơ quan thực hiện chứng thực đang lưu trữ hồ sơ chứng thực thông báo trên cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về bản dịch đã được chứng thực;

g) Buộc tổ chức đấu giá tài sản thực hiện các thủ tục để đề nghị hủy kết quả đấu giá theo quy định trong trường hợp đấu giá tài sản không phải là tài sản công;

h) Kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét việc hủy kết quả đấu giá trong trường hợp đấu giá tài sản không phải là tài sản công;

i) Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét việc sử dụng kết luận giám định khi phát hiện vi phạm làm ảnh hưởng đến nội dung của kết luận giám định;

k) Thông báo trên cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp nơi thừa phát lại đăng ký hành nghề về vi bằng đã được lập do có hành vi vi phạm;

l) Buộc chịu mọi chi phí để khôi phục lại tình trạng ban đầu;

m) Buộc chịu mọi chi phí để khám bệnh, chữa bệnh và chi phí khác (nếu có);

n) Buộc nộp lại số tiền tạm ứng, kinh phí bồi thường;

p) Buộc huỷ bỏ tài liệu có nội dung sai sự thật, trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

- Tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại 44 điều (trong đó 36/44 điều là biện pháp hủy bỏ giấy tờ giả), nhưng Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, biện pháp khắc phục hậu quả đã được quy định tại 63 điều (tăng 19 điều), trong đó bổ sung mới tại hơn 50 điều.

6. Về hành vi vi phạm

- Bổ sung nhiều hành vi vi phạm mới trong các hoạt động, đặc biệt là hoạt động trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp: luật sư, công chứng, đấu giá tài sản…. Cụ thể:

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động luật sư: bổ sung hành vi vi phạm mới cả 4/4 điều;

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động tư vấn pháp luật (2 điều): không bổ sung hành vi vi phạm mới;

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động công chứng: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 6/7 điều (01 điều giữ nguyên là hành vi vi phạm của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên);

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động giám định tư pháp: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 1/3 điều;

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động đấu giá tài sản: bổ sung hành vi vi phạm mới cả 4/4 điều;

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động trọng tài thương mại: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 2/3 điều (giữ nguyên 01 điều về hồ sơ cấp phép);

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động chứng thực: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 1/3 điều (sửa đổi hành vi của 02 điều);

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 7/11 điều;

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, hợp tác quốc tế về pháp luật: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 2/3 điều;

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động trợ giúp pháp lý: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 2/3 điều;

+ Đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động đăng ký bảo đảm bảo đảm: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 1/2 điều;

+ Đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 2/6 điều; bổ sung 01 điều mới (Điều 60. Hành vi vi phạm quy định về sinh con);

+ Đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực thi hành án dân sự: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 01/01 điều; bổ sung 01 điều mới (Điều 65: Hành vi vi phạm của thừa phát lại trong lĩnh vực thi hành án dân sự);

+ Đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã: bổ sung hành vi vi phạm mới đối với 2/3 điều về quản lý thanh lý tài sản; giữ nguyên 12 điều về trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và 01 điều về quản lý, thanh lý tài sản;

Tổng số giữ nguyên 30 điều, bổ sung hành vi mới tại 35 điều.

- Bỏ một số hành vi vi phạm không còn phù hợp với thực tiễn hoặc do quy định pháp luật nội dung có sự thay đổi: Điểm i khoản 3 và điểm b khoản 4 Điều 22; Điểm b khoản 3 Điều 26; Khoản 1 Điều 27; khoản 5 Điều 28; điểm d khoản 3 Điều 34; điểm a khoản 1 Điều 40; điểm a khoản 3 Điều 44; khoản 1 Điều 45, điểm c khoản 4 Điều 50, điểm b và c khoản 5 Điều 64c.

7. Quy định chung về việc xử lý đối với hành vi làm giả tài liệu hoặc sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định chung về việc xử phạt đối với hành vì làm giả tài liệu hoặc sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức tại 01 điều (Điều 81), thể hiện như sau: “ Điều 81. Hành vi làm giả tài liệu hoặc sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức:

1. Khi phát hiện hành vi làm giả tài liệu hoặc sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị: cấp, cấp lại, gia hạn, thay đổi các loại giấy phép; chứng chỉ hành nghề; thẻ; đăng ký hoặc đăng ký lại hoạt động; đăng ký tập sự; bổ nhiệm; miễn nhiệm; xin phép thành lập và các loại giấy tờ, tài liệu khác trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm sang cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 62 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng hình sự không truy cứu trách nhiệm hình sự, thì chuyển hồ sơ vụ vi phạm đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 62 của Luật Xử lý vi phạm hành chính để xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.

2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, hồ sơ gia nhập Đoàn luật sư; giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam; hồ sơ đề nghị cấp giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư; hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập, hồ sơ đề nghị cấp giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, công ty luật nước ngoài, chi nhánh của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam;

b) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ, thủ tục đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm công chứng viên, cấp thẻ công chứng viên; hồ sơ đề nghị thành lập, đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, đăng ký hành nghề cho công chứng viên của văn phòng công chứng;

c) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ xin phép thành lập, hồ sơ đăng ký hoạt động văn phòng giám định tư pháp;

d) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ, thủ tục đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá; hồ sơ đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động đấu giá; hồ sơ đề nghị cấp thẻ đấu giá viên;

đ) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị thành lập, đăng ký hoạt động trung tâm trọng tài, đăng ký chi nhánh của trung tâm trọng tài; thành lập, đăng ký hoạt động, thay đổi tên gọi, lĩnh vực hoạt động của chi nhánh tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; thành lập, thay đổi trưởng văn phòng đại diện, địa điểm đặt trụ sở văn phòng đại diện của tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam;

e) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ thành lập, đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi tên gọi, địa chỉ trụ sở của Trung tâm hòa giải thương mại; đăng ký hoạt động của chi nhánh Trung tâm hòa giải thương mại; thành lập, đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi tên gọi, trưởng chi nhánh, địa chỉ trụ sở của chi nhánh của tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam; thành lập, đề nghị thay đổi tên gọi trưởng chi nhánh, địa chỉ trụ sở văn phòng đại diện của tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam;

g) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ, thủ tục đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại thừa phát lại; hồ sơ đề nghị thành lập, đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, đăng ký hành nghề cho thừa phát lại;

h) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép hoạt động của văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam;

i) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên; hồ sơ đề nghị đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản với tư cách cá nhân; hồ sơ đề nghị đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản đối với doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản;

k) Sử dụng các loại chứng chỉ, thẻ, giấy đăng ký, giấy phép giả;

l) Sử dụng giấy tờ, văn bản giả để yêu cầu công chứng;

m) Sử dụng giấy tờ, văn bản giả để yêu cầu chứng thực;

n) Sử dụng giấy tờ, văn bản giả để đủ điều kiện là người được trợ giúp pháp lý; người thực hiện trợ giúp pháp lý; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý;

o) Sử dụng giấy tờ, văn bản giả để làm thủ tục đăng ký, xác định, thay đổi, cải chính, bổ sung thông tin về hộ tịch;

p) Sử dụng giấy tờ, văn bản giả để làm thủ tục về quốc tịch;

q) Sử dụng giấy tờ, văn bản giả để đăng ký việc nuôi con nuôi;

r) Sử dụng giấy tờ, văn bản giả để yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp; sử dụng phiếu lý lịch tư pháp giả;

s) Sử dụng giấy tờ, văn bản, chứng cứ giả làm căn cứ để yêu cầu bồi thường; chứng minh quyền yêu cầu bồi thường; rút yêu cầu bồi thường và trong quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường;

t) Sử dụng văn bản, giấy tờ giả để yêu cầu thi hành án hoặc làm sai lệch trình tự, thủ tục, kết quả giải quyết việc thi hành án dân sự.

3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, hồ sơ gia nhập Đoàn luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam; hồ sơ đề nghị cấp giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư; hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thành lập, hồ sơ đề nghị cấp giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, công ty luật nước ngoài, chi nhánh của công ty luật nước ngoài tại Việt Nam;

b) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ, thủ tục đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm công chứng viên, cấp thẻ công chứng viên; hồ sơ đề nghị thành lập, đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, đăng ký hành nghề cho công chứng viên của văn phòng công chứng;

c) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ xin phép thành lập, hồ sơ đăng ký hoạt động văn phòng giám định tư pháp;

d) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ, thủ tục đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá; hồ sơ đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động đấu giá; hồ sơ đề nghị cấp thẻ đấu giá viên;

đ) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị thành lập, đăng ký hoạt động trung tâm trọng tài, đăng ký chi nhánh của trung tâm trọng tài; thành lập, đăng ký hoạt động, thay đổi tên gọi, lĩnh vực hoạt động của chi nhánh tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; thành lập, thay đổi trưởng văn phòng đại diện, địa điểm đặt trụ sở văn phòng đại diện của tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam;

e) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ thành lập, đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi tên gọi, địa chỉ trụ sở của Trung tâm hòa giải thương mại; đăng ký hoạt động của chi nhánh Trung tâm hòa giải thương mại; thành lập, đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi tên gọi, trưởng chi nhánh, địa chỉ trụ sở của chi nhánh của tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam; thành lập, đề nghị thay đổi tên gọi, trưởng chi nhánh, địa chỉ trụ sở văn phòng đại diện của tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam;

g) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ, thủ tục đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại thừa phát lại; hồ sơ đề nghị thành lập, đăng ký hoạt động, đề nghị thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, đăng ký hành nghề cho thừa phát lại;

h) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép hoạt động của văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam;

i) Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên; hồ sơ đề nghị đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản với tư cách cá nhân; hồ sơ đề nghị đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản đối với doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản;

k) Làm giả các loại chứng chỉ, thẻ, giấy đăng ký, giấy phép;

l) Làm giả giấy tờ, văn bản để yêu cầu công chứng;

m) Làm giả giấy tờ, văn bản để yêu cầu chứng thực;

n) Làm giả giấy tờ, văn bản để đủ điều kiện là người được trợ giúp pháp lý; người thực hiện trợ giúp pháp lý; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý;

o) Làm giả giấy tờ, văn bản để làm thủ tục đăng ký, xác định, thay đổi, cải chính, bổ sung thông tin về hộ tịch;

p) Làm giả giấy tờ, văn bản để làm thủ tục về quốc tịch;

q) Làm giả giấy tờ, văn bản để đăng ký việc nuôi con nuôi;

r) Làm giả giấy tờ, văn bản để yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp; làm giả phiếu lý lịch tư pháp;

s) Làm giả giấy tờ, văn bản, chứng cứ làm căn cứ để yêu cầu bồi thường; chứng minh quyền yêu cầu bồi thường; rút yêu cầu bồi thường và trong quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường;

t) Làm giả văn bản, giấy tờ để yêu cầu thi hành án hoặc làm sai lệch trình tự, thủ tục, kết quả giải quyết việc thi hành án dân sự.

4. Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc thu hồi và huỷ bỏ giấy tờ, văn bản, chứng cứ giả theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này;

b) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này;

c) Kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi vi phạm quy định tại khoản 2 Điều này;

d) Buộc tổ chức hành nghề công chứng thông báo trên cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp nơi tổ chức hành nghề công chứng đăng ký hành nghề về văn bản công chứng, chứng thực tại điểm l và điểm m khoản 2 Điều này”.

Theo Nghị định, về nguyên tắc: Khi phát hiện hành vi làm giả tài liệu hoặc sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức trong hồ sơ đề nghị: cấp, cấp lại, gia hạn, thay đổi các loại giấy phép; chứng chỉ hành nghề; thẻ; đăng ký hoặc đăng ký lại hoạt động; đăng ký tập sự; bổ nhiệm; miễn nhiệm; xin phép thành lập và các loại giấy tờ, tài liệu kháctrong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm sang cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 62 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng hình sự không truy cứu trách nhiệm hình sự, thì chuyển hồ sơ vụ vi phạm đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính để xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 62 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

          8. Về thẩm quyền lập biên bản

- Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định thẩm quyền lập biên bản trong hoạt động bồi thường nhà nước tại khoản 15 Điều 82:

“15. Người được cử làm người giải quyết bồi thường lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều 56 Nghị định này; người được cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại, cơ quan chi trả tiền bồi thường lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điều 57; điểm s khoản 2 và điểm s khoản 3 Điều 81 Nghị định này”.

- Quy định thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với công chức, viên chức của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia (Khoản 16 Điều 82):

16. Công chức, viên chức Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia lập biên bản vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điều 47; điểm r khoản 2 và điểm r khoản 3 Điều 81 Nghị định này”.

9. Về thẩm quyền xử phạt

- Bổ sung thẩm quyền xử phạt của Thủ trưởng các cơ quan quy định tại Khoản 2, 3, 4 Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính đối với việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động bồi thường nhà nước (thuộc lĩnh vực hành chính tư pháp) tại các khoản 9, 10, 11 Điều 84:

“9. Thủ trưởng cơ quan quy định tại khoản 2 Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến 15.000.000 đồng với hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động bồi thường nhà nước;

c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này;

d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm i khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính; điểm a, c và điểm n khoản 3 Điều 3 Nghị định này.

10. Thủ trưởng cơ quan quy định tại khoản 3 Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến 21.000.000 đồng với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hành chính tư pháp;

c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này;

d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm i khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính; điểm a, c và điểm n khoản 3 Điều 3 Nghị định này.

11. Thủ trưởng cơ quan quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính có quyền:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền đến 30.000.000 đồng với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hành chính tư pháp;

c) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm i khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính; điểm a và điểm n khoản 3 Điều 3 Nghị định này.”

- Bổ sung thẩm quyền xử phạt của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Cục Bổ trợ tư pháp, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực tại Khoản 4 Điều 84 (tương đương thẩm quyền xử phạt của Chánh Thanh tra Sở Tư pháp, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Sở Tư pháp);

- Bỏ quy định “thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan khác” quy định tại Điều 73 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (Điều 73 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định: Ngoài những người có thẩm quyền xử phạt quy định tại Nghị định này, những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan khác theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao mà phát hiện các hành vi vi phạm hành chính quy định trong Nghị định này thuộc lĩnh vực hoặc địa bàn quản lý của mình thì cũng có quyền xử phạt).

10. Phân định thẩm quyền xử phạt

Phân định thẩm quyền xử phạt đến từng hành vi vi phạm cho từng chức danh có thẩm quyền xử phạt (Điều 88):

1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp:

a) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 Điều 48 (Hành vi vi phạm quy định về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật); khoản 1 Điều 58 (Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn) ; khoản 1 Điều 61(Hành vi vi phạm quy định về giám hộ);  các điểm b và c khoản 1 Điều 62 Nghị định này (Hành vi vi phạm quy định về nuôi con nuôi);

b) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 34 (Hành vi vi phạm quy định về chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký)

Điều 35 (Hành vi vi phạm quy định về chứng thực chữ ký người dịch)

Điều 36 (Hành vi vi phạm quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch) và Điều 37(Hành vi vi phạm quy định về đăng ký khai sinh); khoản 1 và khoản 2 Điều 38 (Hành vi vi phạm quy định về đăng ký kết hôn); Điều 40 (Hành vi vi phạm quy định về cấp, sử dụng giấy xác nhận tình trạng hôn nhân); khoản 1 và khoản 2 Điều 41 (Hành vi vi phạm quy định về đăng ký khai tử); Điều 42 (Hành vi vi phạm quy định về đăng ký giám hộ); và Điều 43 (Hành vi vi phạm quy định về đăng ký nhận cha, mẹ, con); khoản 1 và khoản 2 Điều 44 (Hành vi vi phạm quy định về thay đổi, cải chính hộ tịch, bổ sung thông tin hộ tịch, xác định lại dân tộc); các khoản 1, 2 và 3 Điều 45 (Hành vi vi phạm nguyên tắc đăng ký, quản lý hộ tịch, sử dụng giấy tờ hộ tịch; xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu hộ tịch); Điều 48 (Hành vi vi phạm quy định về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật)  và Điều 49 (Hành vi vi phạm quy định về nghĩa vụ củatuyên truyền viên pháp luật, báo cáo viên pháp luật); các khoản 1, 2 và 3 Điều 56 (Hành vi vi phạm quy định về yêu cầu bồi thường và giải quyết yêu cầu bồi thường); khoản 1 và khoản 2 Điều 57 (Hành vi vi phạm quy định về hoàn trả); Điều 58 (Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn); khoản 1 Điều 59 (Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng); các Điều 60 (Hành vi vi phạm quy định về sinh con), 61 (Hành vi vi phạm quy định về giám hộ) và 62 (Hành vi vi phạm quy định về nuôi con nuôi) Nghị định này;

c) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Chương II; Chương III; Chương IV; các Điều 78, 79 và 80; Chương VII Nghị định này.

2. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra:

a) Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành, Chánh Thanh tra của Sở Tư pháp xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 5; các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 6; các khoản 1, 2 và 3 Điều 7; Điều 8; các khoản 1, 2 và 3 Điều 9; Điều 10 và Điều 11; khoản 1 và khoản 2 Điều 12; Điều 13 và Điều 14; các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Điều 15; các khoản 1, 2 và 3 Điều 16; các Điều 17, 18, 19, 20 và 21; các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Điều 22; khoản 1 và khoản 2 Điều 23; các khoản 1, 2 và 3 Điều 24; Điều 25 và Điều 26; khoản 1 Điều 27; Điều 28 và Điều 29; khoản 1 Điều 30, Điều 31; các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Điều 32; các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 33; Mục 1 Chương III; Điều 37; khoản 1 và khoản 2 Điều 38; các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 39; Điều 40; khoản 1 và khoản 2 Điều 41; Điều 42; Điều 43; khoản 1 và khoản 2 Điều 44; các khoản 1, 2 và 3 Điều 45; khoản 1 và khoản 2 Điều 46; các Điều 47, 48 và 49; Mục 4 và Mục 5 Chương III; các khoản 1, 2 và 3 Điều 56; khoản 1 và khoản 2 Điều 57; Điều 58; khoản 1 Điều 59; các Điều 60, 61 và 62; Điều 65 và Điều 78; các khoản 1, 2 và 3 Điều 79; Điều 80 và các điểm a, b, c, d, đ, e, g, i, k, l, m, n, o, p, q, r, s và t khoản 2 Điều 81 Nghị định này;

b) Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Bộ Tư pháp xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 5; các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 6; các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 7; Điều 8; các khoản 1, 2 và 3 Điều 9; các Điều 10, 11, 12, 13, 14 và 15; các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 16; Điều 17; Mục 4 Chương II; các Điều 21, 22; các khoản 1, 2 và 3 Điều 23; các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 24; Mục 6 và Mục 7 Chương II; Điều 31 và Điều 32; các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 33; Mục 1 và Mục 2 Chương III; Điều 48 và Điều 49; các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 50; Mục 4 và Mục 5 Chương III; các khoản 1, 2 và 3 Điều 56; các khoản 1, 2 và 3 Điều 57; các Điều 58, 59, 60, 61 và 62; các khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều 63; các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 64; Điều 65 và Điều 78; các khoản 1, 2 và 3 Điều 79; Điều 80; khoản 2 và các điểm a, b, c, d, đ, e, g, k và l khoản 3 Điều 81 Nghị định này;

c) Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tạicác Chương II, III, IV, V; các Điều 78, 79 và 80; Chương VII Nghị định này;

d) Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Chương II; Mục 6 Chương III; các Điều 65, 78, 79 và 80; các điểm a, b, c, d, đ, e, g, i, k, l, m, s và t khoản 2, các điểm a, b, c, d, đ, e, g, i, k, l, m, s và t khoản 3 Điều 81 Nghị định này;

đ) Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Mục 1 Chương III; các Điều 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45 và 46; Mục 6 Chương III; các Điều 58, 59, 60, 61 và 62; các điểm m, o, p, q và s khoản 2, các điểm m, o, p, q và s khoản 3 Điều 81 Nghị định này;

e) Các chức danh quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 46 của Luật Xử lý vi phạm hành chính xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 56; Điều 57;điểm s khoản 2 và điểm s khoản 3 Điều 81 Nghị định này.

3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan thi hành án dân sự:

a) Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 64; khoản 1 Điều 65 Nghị định này;

b) Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Trưởng phòng Phòng Thi hành án cấp quân khu xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 56; các khoản 1, 2 và 3 Điều 57; các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 64; các khoản 1, 2 và 3, điểm a và điểm b khoản 4 Điều 65; điểm s và điểm t khoản 2 Điều 81 Nghị định này;

c) Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại Mục 6 Chương III; Điều 64; các khoản 1, 2, 3, điểm a và điểm b khoản 4 Điều 65;điểm s và điểm t khoản 2, điểm s và điểm t khoản 3 Điều 81 Nghị định này.

4. Người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 34; các Điều 35, 36, 37, 38, 40, 41, 42, 43, 44, 45 và 46; các điểm k, m, o, p và q khoản 2, các điểm k, m, o, p và q khoản 3 Điều 81 Nghị định này.

5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Tòa án các cấp:

a) Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phá sản xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các Điều 66, 67, 69 và 71; khoản 1 Điều 73; các Điều 75, 76 và 77 Nghị định này;

b) Chánh án Tòa án cấp huyện xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các Điều 66, 67, 69 và 71; khoản 1 Điều 73; khoản 1 Điều 75; Điều 76 và Điều 77 Nghị định này;

c) Chánh án Tòa án cấp tỉnh xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các Điều 56, 57, 66, 67, 69, 71, 72, 73, 75, 76 và 77; điểm s khoản 2 và điểm s khoản 3 Điều 81 Nghị định này.

Tóm lại, việc ban hành Nghị định số 82/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, thay thế Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP là bước phát triển, bước hoàn thiện mới của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong các hoạt động tư pháp. Nghị định này là một trong những công cụ không thể thiếu của hoạt đông quản lý nhà nước nói chung, các lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nói riêng.  Hy vọng rằng khi Nghị định có hiệu lực thi hành và được triển khai, thực hiện trong thực tiễn sẽ góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính cũng như đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực tư pháp, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã./.

 

CHUYÊN ĐỀ 4

KỸ NĂNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THEO DÕI

TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT; XÂY DỰNG BÁO CÁO

THEO DÕI THI HÀNH PHÁP LUẬT

 

A. VỀ XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THEO DÕI TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT

          I. LÝ DO PHẢI XÂY DỰNG KẾ HOẠCH THEO DÕI TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT

          1. Xét ở góc độ lý thuyết thì xây dựng kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật là một quá trình sắp xếp các nguồn lực (con người, tài chính), thời gian và các phương tiện, được sử dụng cho một khoảng thời gian xác định trong tương lai, để thực hiện các hoạt động cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu đã định trước với việc sử dụng các kinh nghiệm trong quá khứ, dự báo khả năng trong tương lai và công nhận thực tế của hiện tại.

Xây dựng kế hoạch là một quá trình xác định mục tiêu và phương thức thích hợp để đạt mục tiêu đặt ra trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2. Ý nghĩa của công tác xây dựng kế hoạch

a) Giúp xác định mục tiêu cần đạt được của hoạt động và cách thức tổ chức, huy động các nguồn lực và tổ chức thực hiện các công việc để đạt được mục tiêu đề ra.

b) Giúp hướng các nguồn lực và các nỗ lực vào việc hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ; giúp huy động và phối hợp được công sức và thời gian của các bộ phận, đơn vị trong cơ quan, tổ chức góp phần vào thực hiện các mục tiêu;

c) Giúp cơ quan, đơn vị sử dụng hiệu quả các nguồn lực thông qua việc lựa chọn phương án bố trí, sử dụng và phối hợp các nguồn lực một cách hợp lý và hiệu quả, giảm thiểu sự trùng lặp, chồng chéo, lãng phí;

d) Là công cụ hỗ trợ hữu hiệu để kiểm soát, đánh giá tiến độ thực hiện, chất lượng và kết quả thực hiện công việc, giúp đưa ra các quyết định chính xác, kịp thời để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các mục tiêu.

đ) Giúp xác định được trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực thi nhiệm vụ, từ đó giúp đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng chủ thể.

3. Cơ sở pháp lý

a) Nghị định số 32/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật (Nghị định số 32/2020/NĐ-CP).

b) Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật (Nghị định số 59/2012/NĐ-CP).

c) Thông tư số 14/2014/TT-BTP ngày 15/5/2014 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật (Thông tư số 14/2014/TT-BTP).

II. XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THEO DÕI TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT

Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Nghị định số 32/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP quy định trách nhiệm ban hành và tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của các Bộ, ngành và địa phương. Trên cơ sở đó, Thông tư số 14/2014/TT-BTP đã dành một điều riêng (Điều 6) để hướng dẫn vấn đề này.

Trên cơ sở các quy định hiện hành của pháp luật và thực tiễn triển khai công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong thời gian qua, trong phạm vi chuyên đề này, xin khái quát một số các kỹ năng xây dựng và thực hiện kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật thông qua các bước sau đây:

Bước 1: Căn cứ để xây dựng kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật:

Thực tiễn triển khai công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong những năm qua cho thấy theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên tất cả các lĩnh vực là việc làm khó khăn, gặp phải nhiều lúng túng trong quá trình thực hiện. Đồng thời, theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên tất cả các lĩnh vực là việc làm tốn kém về cả nhân lực và vật lực mà chúng ta khó có thể đáp ứng được. Do đó, khi xây dựng kế hoạch phải đáp ứng nguyên tắc theo dõi tình hình thi hành pháp luật có trọng tâm, trọng điểm. Mặc khác, lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật phải đảm bảo thống nhất trên cả nước hoặc địa bàn nhất định, là lĩnh vực có nhiều vấn đề bức xúc, nổi cộm trong thực tiễn cuộc sống. Từ đó, mới có thể đưa ra một bức tranh đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm được lựa chọn. Vì vậy, việc xác định căn cứ để xây dựng kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật hàng năm của đơn vị là rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong năm đó. Từ lý do trên, khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Thông tư số 14/2014/TT-BTP tập trung hướng dẫn về việc xác định căn cứ xây dựng kế hoạch, cụ thể như sau:

“Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp cuối năm về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của năm sau, kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, nội dung trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, kiến nghị của cử tri trong năm đó và thực tiễn thi hành pháp luật, trước ngày 30 tháng 11 hằng năm Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đề xuất với Chính phủ lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước năm sau.”(khoản 1 Điều 6 Thông tư số 14/2014/TT-BTP).

Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp cuối năm phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong năm trước, đồng thời định hướng các lĩnh vực cần tập trung ưu tiên đầu tư phát triển, tạo chuyển biến của đất nước trong năm sau đã được các đại biểu Quốc hội - đại diện cho toàn thể ý chí của toàn thể nhân dân thông qua. Vì vậy, cần bám sát vào nghị quyết của Quốc hội để phân tích và xác định những lĩnh vực pháp luật còn nhiều khó khăn, bất cập, cần tạo chuyển biến. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội là bám sát vào chủ trương, đường lối của Nhà nước để đảm bảo đi đúng hướng, lựa chọn đúng vấn đề. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của Quốc hội và nội dung trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, kiến nghị của cử tri cũng là những nguồn tư liệu quan trọng để tổng hợp, phân tích những lĩnh vực nào của đời sống kinh tế - xã hội còn thiếu quy định của pháp luật, tình hình tuân thủ pháp luật còn thấp, những lĩnh vực còn nhiều khó khăn, bất cập, gây bức xúc trong dư luận xã hội cần tập trung theo dõi, đánh giá để tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp tháo gỡ.

Từ việc căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp cuối năm về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của năm sau, kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội và nội dung trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, kiến nghị của cử tri trong năm thì Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đề xuất với Chính phủ lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm sau. Sự phối hợp, tham gia vào các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - đại diện cho tiếng nói của các tầng lớp nhân dân và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp cũng thể hiện rõ rệt trong việc tham gia xác định lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật để đề xuất với Chính phủ. Điều 11 Thông tư số 14/2014/TT-BTP quy định:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cung cấp thông tin, kiến nghị của nhân dân thông qua hoạt động giám sát tình hình thi hành pháp luật; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Bộ Tư pháp đề xuất lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước hằng năm;

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hội nghề nghiệp cung cấp ý kiến, kiến nghị của các doanh nghiệp, các hội viên về tính kịp thời, đầy đủ trong thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tính chính xác, thống nhất trong hướng dẫn, áp dụng pháp luật và trong áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của văn bản pháp luật và các vấn đề có liên quan khác; phối hợp với Bộ Tư pháp đề xuất lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước hằng năm”.

Như vậy, theo quy định của Thông tư số 14/2014/TT-BTP, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có quyền tham gia đề xuất lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với hai tổ chức này và các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để đề xuất đưa vào nghị quyết của  Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước đã thể hiện sự đồng thuận của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc lựa chọn lĩnh vực này. Quy định của Thông tư cũng thể hiện sự thống nhất của tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cũng như sự nhạy bén với những phản ứng chính sách từ phía người dân và doanh nghiệp đối với những vấn đề bức xúc, nổi cộm trong đời sống kinh tế - xã hội.

Ví dụ: Hàng năm, trên cơ sở Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước, cũng như xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước đối với những vực có nhiều khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện, tồn tại những điểm nóng trong dư luận xã hội, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan lựa chọn lĩnh vực để theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Trên cơ sở lĩnh vực được Bộ Tư pháp lựa chọn ban hành kèm theo kế hoạch theo dõi tình hình thi hành, Ủy ban nhân dân tỉnh đã xác định các lĩnh vực để theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại địa phương qua các năm, cụ thể như sau:

Năm 2017: Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp;

Năm 2018: Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực y tế, tài nguyên và môi trường, lao động, thương binh và xã hội.

Năm 2019: Theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.

Năm 2020: Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường.

Năm 2021: Theo dõi tình hình thi hành pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thu hồi đất; về giao rừng và chuyển mục đích sử dụng rừng; về bảo vệ môi trường biển và hải đảo; các điều kiện an toàn phòng cháy, chữa cháy.

Đề xuất về lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật vào nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước phải được thực hiện trước ngày 30 tháng 11 hàng năm để bảo đảm cho các Bộ, ngành, địa phương kịp thời có căn cứ ban hành kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của mình.

Trên cơ sở lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được đưa vào Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước hàng năm thì: Căn cứ nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước hằng năm và thực tiễn thi hành pháp luật trong phạm vi, lĩnh vực quản lý, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nghị quyết của Chính phủ được ban hành, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải ban hành kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Bộ, ngành, địa phương mình, trong đó xác định lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật đảm bảo đồng bộ với trọng tâm trong lĩnh vực kiểm soát thủ tục hành chính và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương trong năm đó.” (Khoản 2 Điều 6 Thông tư số 14/2014/TT-BTP).

Quy định này, đảm bảo sự thống nhất trong lựa chọn lĩnh vưc trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên phạm vi cả nước để bảo đảm có được bức tranh đa chiều về tình hình thi hành pháp luật của lĩnh vực đó trong năm. Từ đó, các đánh giá và nhận định sẽ khách quan, mang tính phổ quát, các kiến nghị và giải pháp đưa ra cũng đảm bảo hợp lý trên cơ sở thông tin đầy đủ về tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm trên phạm vi cả nước.

Như vậy, căn cứ để xác định và ban hành kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước hằng năm. Sau khi đã xác định được căn cứ để xây dựng kế hoạch thì thực hiện các bước tiếp theo để xây dựng dự thảo kế hoạch, nhưng phải đảm bảo tiến độ về thời gian.

Ví dụ: Là một trong những tiêu chí khi chấm điểm PAR INDEX, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải kịp thời ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của mình đúng thời hạn để làm căn cứ chấm điểm cuối năm.

Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 32/2020/NĐ-CP quy định về xây dựng, ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật:

“1. Hằng năm, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng, ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của bộ, ngành, địa phương mình, gửi về Bộ Tư pháp trước ngày 30 tháng 01 để theo dõi, tổng hợp.

2. Bộ trưởng Bộ Tư pháp xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành trước ngày 01 tháng 01 của năm kế hoạch.”

Tại địa phương, hàng năm trên cơ sở Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng và ban hành Kế hoạch về theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại địa phương để tổ chức triển khai thực hiện. Các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh căn cứ vào các Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh, đã xây dựng và ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của ngành, địa phương mình, đảm bảo sự phù hợp về lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật của ngành và kế hoạch chung của tỉnh.

Bước 2: Xác định lĩnh vực trọng tâm, phạm vi theo dõi

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải căn cứ vào lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước hằng năm để xác định lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật đảm bảo đồng bộ với trọng tâm trong lĩnh vực kiểm soát thủ tục hành chính, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương trong năm đó. Điều này, có nghĩa là một trong các lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải trùng với lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước. Ngoài ra, căn cứ vào thực tiễn thi hành pháp luật trong lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình thì Bộ, ngành, địa phương có thể lựa chọn thêm lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật khác.

Ví dụ: Ngày 15 tháng 01 năm 2020, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 76/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành và lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp năm 2020. Theo đó, lĩnh vực trọng tâm được lựa chọn để theo dõi tình hình thi hành pháp luật là bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, qua theo dõi cho thấy, một số địa phương đã chọn thêm một số lĩnh vực khác để theo dõi cho phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.

Đồng thời, để bảo đảm gắn kết giữa theo dõi tình hình thi hành pháp luật với kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính, tạo sự chuyển biến trong ba công tác này thì lĩnh vực kiểm soát thủ tục hành chính và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương trong năm đó phải đảm bảo đồng bộ với lĩnh vực trọng tâm theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được lựa chọn. Quy định này vừa tạo ra sự gắn kết giữa theo dõi tình hình thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính vừa đảm bảo tinh thần tiết kiệm, bổ trợ, cung cấp thông tin đa chiều, đồng thời có thể đánh giá được nhiều khía cạnh như thủ tục hành chính, kiểm tra văn bản và theo dõi tình hình thi hành pháp luật về lĩnh vực trọng tâm được lựa chọn.

Sau khi đã xác định được giới hạn về nội dung, lĩnh vực, địa bàn, đối tượng cần ưu tiên, người lập kế hoạch phải tính toán, cân nhắc tới nguồn thông tin nào cần thiết phải có để phục vụ cho việc đánh giá, và những yếu tố khó khăn, rủi ro khi thu thập thông tin để từ đó xác định rõ những hoạt động ưu tiên đối vơi từng nhóm đối tượng cụ thể. Một điều đáng lưu ý là phải dự liệu những rủi ro có thể gặp phải trong các hoạt động đánh giá. Những gì cần phải đưa vào kế hoạch và tiến hành hoạt động đánh giá nên được cân nhắc về mức độ ưu tiên khác nhau. Chẳng hạn như việc điều tra, khảo sát mang tính chuyên sâu của cơ quan nghiên cứu phân tích xã hội học thì cần ưu tiên hoạt động cho những thông tin nào? ở nội dung nào hay địa bàn nào sẽ khảo sát điều tra. Đối tượng khảo sát, điều tra sẽ tập trung vào người dân, doanh nghiệp hay tổ chức xã hội, nghề nghiệp hay cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực trọng tâm theo dõi? và ai/cơ quan nào sẽ được ưu tiên đưa vào kế hoạch để phối hợp thực hiện.

Bước 3. Xác định những cơ quan, đơn vị, tổ chức có lợi ích liên quan chủ yếu trong kế hoạch theo dõi

Bước này phải trả lời câu hỏi chính: “Việc đánh giá này ảnh hưởng tới những ai? Việc đánh giá này là vì nhu cầu của ai? Ai có trách nhiệm đối với mỗi hoạt động?”

Các bên có lợi ích liên quan cần phải được xác định sớm. Kinh nghiệm của các nhóm đối tượng tham gia, các yêu cầu về thông tin của người ra quyết định, và hướng dẫn/chỉ thị của người quản lý là cơ sở để xác định, hình thành các mục tiêu, thời gian và cách thức theo dõi, đánh giá. Từ đó, trách nhiệm của các bên liên quan sẽ được xác định trong kế hoạch theo dõi.

Những bên có lợi ích liên quan chủ yếu có thể gồm:

- Những đối tượng chủ yếu chịu sự tác động của chính sách hay quy phạm pháp luật;

- Những người điều hành/quản lý hoặc những người ra quyết định trong các cơ quan quản lý nhà nước liên quan;

- Giới học giả, nhà khoa học nghiên cứu chính sách và các chuyên gia, người hành nghề trong lĩnh vực chuyên môn;

- Các cơ quan, tổ chức khác ngoài các cơ quan nhà nước.

- Các bên có lợi ích liên quan tham gia thực hiện kế hoạch với vai trò gì, ở mức độ nào? Hay nói cách khác, phải trả lời được câu hỏi “ai nên là người chủ trì hay thành lập đoàn kiểm tra để đánh giá nội bộ. Ngoài ra, phải cân nhắc xem cần cơ quan hoặc nhóm bên ngoài đánh giá độc lập không? Nếu cần thì mức độ tham gia với tư cách cộng tác viên tới đâu? Cụ thể làm gì? Cụ thể, đó là những người sau đây thường là đối tượng để lựa chọn:

+ Các cán bộ hoặc nhân viên của cơ quan tổ chức thi hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật;

+ Các đơn vị đánh giá chuyên trách nằm trong cơ quan (thanh tra chuyên ngành hoặc đơn vị chức năng);

+ Đánh giá ở bên ngoài (ví dụ, những nhà tư vấn hoặc những cơ sở nghiên cứu chuyên môn sâu) được thuê bởi các cơ quan liên quan;

+ Các cơ quan hành chính hoặc cơ quan lập pháp/dân cử, cơ quan tư pháp …

Việc xác định người đánh giá phù hợp tùy thuộc vào ưu tiên, các mục tiêu, ngân sách, đối tượng sử dụng báo cáo hướng tới, các yêu cầu về kỹ thuật và chuyên môn và thời gian, thời điểm của việc đánh giá. Người hay cơ quan, tổ chức đánh giá bên ngoài thì có ưu thế về tính khách quan và có thể có kiến thức, kỹ thuật chuyên sâu hơn. Tuy nhiên, khi phối hợp với một cơ quan, tổ chức theo dõi đánh giá, điều quan trọng là phải xác định và đồng ý với nhau được về các mục tiêu, phạm vi và trách nhiệm ngay ở giai đoạn trước khi tiến hành đánh giá để cùng có nhận thức đúng về lợi ích liên quan và những thách thức sẽ phải đối mặt để không cầu toàn, đặt kỳ vọng quá cao về những kết quả đáng giá cuối cùng.

Bước 4: Xác định các yêu cầu tối thiểu bảo đảm thực hiện kế hoạch

Bước này phải trả lời câu hỏi như: “chúng ta đạt được các mục tiêu của kế hoạch bằng cách nào? Những yêu cầu và trách nhiệm ràng buộc gì?”

Các mục tiêu đánh giá và phạm vi đánh giá nên được ấn định và hoàn thiện trong bối cảnh có những cân nhắc tính khả thi với tình hình, điều kiện phát triển thực tế. Điều nay, gồm các yếu tố sau:

- Nguồn lực: Cần bao nhiêu kinh phí và nhân lực để phục vụ việc theo dõi, đánh giá như kế hoạch đặt ra? Cần bao nhiêu thời gian hoặc có bao nhiêu thời gian có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của việc theo dõi, đánh giá?

- Thông tin: Những thông tin có liên quan nào hiện đang có sẵn? Những thông tin nào cần được tìm kiếm, thu thập thêm hoặc muốn có thêm? Sẽ mất thời gian bao lâu để thu nhập và xử lý những thông tin này?

- Kiến thức chuyên sâu – Những kinh nghiệm hoặc những kiến thức chuyên môn sâu nào cần phải có để đạt được các mục tiêu đánh giá? Cơ quan có thể tiếp cận được với nguồn kinh nghiệm hoặc kiến thức chuyên sâu đó không?

Khi xác định được điều kiện tối thiểu đảm bảo thực hiện kế hoạch sẽ cho phép chúng ta nhìn lại và khẳng định được các hoạt động ưu tiên cần thiết trong điều kiện nguồn lực, thời gian có hạn.

Bước 5: Xác định các hoạt động và cách thức thực hiện các hoạt động trong kế hoạch

Bước này trả lời câu hỏi “thông tin nào cần phải có? Làm cách nào để có được thông tin đó”.

Sự thành công của một kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật, đánh giá phụ thuộc vào nguồn thông tin tốt – tức là các thông tin có thể trả lời được các câu hỏi đặt ra cho việc đánh giá.

Cách thức thực hiện là phải xác định được bằng cách nào để có thể có được thông tin, dữ liệu có liên quan. Việc thu thập, quản lý và xử lý thông tin, dữ liệu đó như thế nào. Các dữ liệu có thể là định tính (gắn với việc trả lời các câu hỏi có tính giải thích và mở) hoặc định lượng (tùy thuộc vào các thước đo cụ thể và các chỉ số thống kê cụ thể). Ví dụ, khi đánh giá về tính phù hợp thì cần xem phù hợp với mục tiêu về hiệu quả mà chính sách, pháp luật đặt ra hay không để từ đó xác định đúng thông tin, dữ liệu cần để phân tích chi phí/lợi ích hoặc sự phù hợp về mức xử phạt hay chế tài, hoặc sự phù hợp với phong tục tập quán thì cần thu thập thông tin phản hồi từ phía người dân, doanh nghiệp … Hoặc khi đánh giá về mức độ tuân thủ thì đối với cơ quan nhà nước phải có đánh giá khách quan từ bên ngoài và có thể là đánh giá định tính bên cạnh đánh giá định lượng của cơ quan quản lý nhà nước.

Ví dụ: Các hoạt động cơ bản thường được lựa chọn để đưa vào kế hoạch là hoạt động kiểm trahoạt động điều tra, khảo sát về tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực được lựa chọn.

Bước 6: Dự thảo và trình ký kế hoạch/Quyết định phê duyệt kế hoạch

Bước này là khâu quan trọng vì sau khi đã nhận diện, giới hạn tất cả các hoạt động cần thiết thì người xây dựng kế hoạch phải sắp xếp đưa bản dự thảo kế hoạch đảm bảo tính logic về nội dung hoạt động, thời gian biểu cho các hoạt động và người chịu trách nhiệm cho từng hoạt động, thể hiện rõ trách nhiệm chủ trì và/hoặc trách nhiệm phối hợp với các bên liên quan, đặc biệt là cân nhắc kỹ những loại thông tin gì cần huy động sự tham gia của cộng tác viên từ bên ngoài để theo đó lập dự toán kinh phí cụ thể cho các hoạt động đó trong kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Kế hoạch phải gồm các nội dung cơ bản như sau:

a) Mục đích, yêu cầu;

b) Văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hoặc lĩnh vực pháp luật trọng tâm theo dõi, đánh giá;

c) Các hoạt động cụ thể và tiến độ thực hiện;

d) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện kế hoạch;

đ) Kinh phí thực hiện kế hoạch.

Dự thảo kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật có thể gửi cho các cơ quan, đơn vị có liên quan cho ý kiến góp ý hoặc tổ chức một cuộc họp có sự chủ trì của người có thẩm quyền để thảo luận và chốt lại kế hoạch trước khi trình người có thẩm quyền ký phê duyệt. Việc góp ý là cần thiết để trả lời câu hỏi “chúng ta đã đạt sự đồng thuận về các mục tiêu đánh giá mà ban đầu chúng ta đặt ra chưa? Liệu dự thảo kế hoạch có cần hoàn thiện thêm nữa không?”

Công việc bước này không cần hướng dẫn cụ thể nhưng vẫn phải nhắc lại để đảm bảo rằng kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật được phê duyệt đúng thời điểm và sẽ được công khai tới các bên liên quan có trách nhiệm thực hiện.

Bước 7: Triển khai thực hiện kế hoạch

 - Họp, quán triệt nội dung kế hoạch: Tại cuộc họp, ngoài thông báo nội dung kế hoạch và phân công cụ thể phạm vi trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị thì tổ chức được giao chủ trì (Sở Tư pháp đối với kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh, Phòng Tư pháp đối với kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng, ban đối với các Sở, ban, ngành cấp tỉnh) cần lưu ý đến những ý kiến phản ánh từ phía các cơ quan, đơn vị có liên quan để kế hoạch được triển khai có hiệu quả.

- Thường xuyên theo dõi, tổng hợp các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch và soạn văn bản hướng dẫn, kịp thời giải đáp vướng mắc (nếu có).

Ví dụ: Để triển khai thực hiện Kế hoạch số 293/KH-UBND ngày 30/12/2020 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh năm 2021, Kế hoạch số 34/KH-UBND ngày 01/02/2021 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh, ngày 22/02/2021, Sở Tư pháp đã ban hành Công văn số 306/STP-XDKTVBQPPL để hướng dẫn, đôn đốc các Sở, ban, ngành cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện theo dõi tình hình thi hành pháp luật đối với lĩnh vực trọng tâm, liên ngành năm 2021. Trong đó, Công văn đã hướng dẫn cụ thể các hoạt động theo dõi thi hành pháp luật (điều tra, khảo sát; kiểm tra; rà soát, lập danh mục các văn bản quy phạm pháp luật; thu thập, xử lý thông tin tình hình thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường…); chế độ, biểu mẫu báo cáo và kinh phí bảo đảm cho công tác theo dõi thi hành pháp luật.

 - Định kỳ hàng quý cần tổ chức họp, rà soát kết quả thực hiện của cơ quan, đơn vị có liên quan về những công việc được triển khai theo nội dung kế hoạch đã được ký ban hành.

- Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nội dung nêu trong kế hoạch. Do nguồn lực hạn chế nên khi triển khai cần tính toán để có thể lồng ghép các hoạt động nhưng vẫn bảo đảm được mục tiêu, yêu cầu đề ra.

- Kịp thời tổng hợp, phản ứng chính sách đối với những vấn đề phát sinh trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

- Xây dựng báo cáo kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

Khi xây dựng báo cáo kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật cần lưu ý:

Theo quy định tại khoản 8 Điều 1 Nghị định Nghị định số 32/2020/NĐ-CP  sửa đổi, bổ sung Khoản 5 Điều 17 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP được như sau:  

“Hằng năm Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Bộ Tư pháp về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật chậm nhất vào ngày 10 tháng 12 của kỳ báo cáo.

Thời gian chốt số liệu báo cáo tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước kỳ báo cáo đến ngày 30 tháng 11 của kỳ báo cáo.

Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện việc báo cáo về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp.”

Về Đề cương báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật

Theo Phụ lục số 2 ban hành kèm theo Thông tư số 16/2018/TT-BTP, Đề cương báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật bao gồm những nội dung cơ bản sau:

* Công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ theo dõi tình hình thi hành pháp luật:

- Những ưu điểm và kết quả đạt được;

- Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

* Kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật

- Đánh giá chung về tình hình thi hành pháp luật

+ Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thuộc thẩm quyền.

+ Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật.

+ Tình hình tuân thủ pháp luật.

- Tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm liên ngành, lĩnh vực cụ thể được lựa chọn theo dõi thi hành pháp luật

+ Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm thuộc thẩm quyền.

+ Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật.

+ Tình hình tuân thủ pháp luật.

* Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

- Tồn tại, hạn chế

+ Tồn tại, hạn chế về tình hình thi hành pháp luật.

+ Tồn tại, hạn chế về tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm liên ngành, lĩnh vực cụ thể được lựa chọn theo dõi thi hành pháp luật.

- Nguyên nhân

* Đề xuất, kiến nghị

- Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

- Đối với các Bộ, ngành địa phương.

- Đối với các cơ quan khác.

Về hệ thống biểu mẫu kèm theo báo cáo (02 biễu mẫu)

Theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 16/2018/TT-BTP, mẫu Đề cương báo cáo và các biểu mẫu sử dụng để tổng hợp số liệu báo cáo kèm theo báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, gồm:

- Mẫu số 1 là Bảng tổng hợp số liệu báo cáo về tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thuộc thẩm quyền.

- Mẫu số 2 là Bảng tổng hợp số liệu báo cáo về tình hình tuân thủ pháp luật  của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền và cá nhân, tổ chức.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý THÊM

1. Khi xây dựng kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau đây:

- Luận giải được lý do chọn lĩnh vực để theo dõi hàng năm. Vấn đề này cần tập trung phân tích kỹ trong bản thuyết minh, xin ý kiến về dự kiến lĩnh vực được lựa chọn để theo dõi.

- Lĩnh vực lựa chọn phải thỏa mãn 02 yếu tố là:

(i) Trọng tâm;

(ii) Liên ngành.

Cần rà soát kỹ những cơ quan, tổ chức nào có liên quan đến lĩnh vực dự kiến theo dõi.

- Về nội dung theo dõi tình hình thi hành pháp luật, Kế hoạch đã bám sát các nội dung quy định tại Điều 7, Điều 8, Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP và hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 14/2014/TT-BTP. Theo đó, các cơ quan, đơn vị có liên quan tập trung xem xét, đánh giá nội dung về tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết; tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật và tình hình tuân thủ pháp luật. Kế hoạch cũng đã làm rõ, cụ thể hóa để hướng dẫn các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật gồm: (1) thu thập thông tin về tình hình thi hành pháp luật; (2) kiểm tra tình hình thi hành pháp luật; (3) điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật.

- Để triển khai thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra, kế hoạch cũng phân công trách nhiệm cụ thể, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, đơn vị chủ trì và các cơ quan, đơn vị phối hợp. Các cơ quan, đơn vị cần bố trí cán bộ, kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác cho hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

- Rất cần yếu tố truyền thông, thực tiễn cho thấy sự tham gia của các cơ quan báo chí có ý nghĩa quan trọng bảo đảm sự thành công của kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

- Quá trình tổ chức theo dõi đối với lĩnh vực cần lưu ý tiếp nhận, lựa chọn và tập trung xử lý những vụ việc cụ thể để tiến hành theo dõi. Việc theo dõi vụ việc cụ thể cần bám sát thực hiện cho đến khi có kết quả xử lý tình hình theo dõi thi hành pháp luật.

- Kế hoạch cũng đặt ra mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân cũng như huy động sự tham gia, phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội… và các tổ chức, cá nhân khác trong quá trình triển khai thực hiện các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

2. Một số lỗi thường gặp khi xây dựng và thực hiện kế hoạch

Khi xây dựng và thực hiện kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật (bao gồm cả lĩnh vực theo dõi trọng tâm, liên ngành), chúng ta cần lưu ý để khắc phục một số lỗi thường gặp sau đây:

- Xác định lĩnh vực theo dõi dàn trãi, thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.

- Lĩnh vực được lựa chọn để theo dõi tình hình thi hành pháp luật vẫn chưa thực sự bám sát kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, Sở, ngành.

- Thời gian triển khai các hoạt động thường xác định triển khai vào các tháng của cuối năm công tác, do đó ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của các hoạt động theo dõi thi hành pháp luật.

- Trách nhiệm của các Sở, ban, ngành chưa thật sự đầy đủ; dễ dẫn đến cách hiểu theo dõi thi hành pháp luật là nhiệm vụ riêng của ngành Tư pháp các cấp …

- Quá chú ý đến một số hoạt động này, nhưng lại xem nhẹ vai trò, tác dụng của hoạt động khác (ví dụ: thông thường các cơ quan, đơn vị, địa phương không chú ý hoặc còn xem nhẹ hoạt động điều tra, khảo sát trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật).

- Chậm phản ứng chính sách hoặc phản ứng chính sách mang tính hình thức, chiếu lệ (không bám sát thực hiện cho đến khi có kết quả xử lý tình hình theo dõi thi hành pháp luật cuối cùng).

- Không đề xuất được các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, hoàn thiện các quy định pháp luật.

IV. KẾT LUẬN

Việc lập và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn, vì qua đó, giúp xác định được rõ ràng lĩnh vực theo dõi tình hình thi hành pháp luật hàng năm, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước, cũng như cách thức tổ chức các hoạt động, góp phần thúc đẩy nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật của cơ quan, đơn vị, địa phương từng bước đi về nề nếp, thực chất và hiệu quả.

B. XÂY DỰNG BÁO CÁO CÔNG TÁC THEO DÕI TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT

Báo cáo trong quản lý công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật bao gồm: Báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và Báo cáo trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

Theo Thông tư số 16/2018/TT-BTP ngày 14/12/2018 của Bộ Tư pháp quy định chế độ báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình hình thi hành pháp luật, bao gồm những nội dung cơ bản sau:

I. Kỳ báo cáo, thời gian lấy số liệu báo cáo và thời hạn gửi báo cáo

1. Báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

a) Kỳ báo cáo: Định kỳ 06 tháng và hàng năm.

b) Thời gian lấy số liệu đối với báo cáo định kỳ 06 tháng và báo cáo định kỳ hàng năm thực hiện theo quy định của Chính phủ về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước.

c) Báo cáo phải được gửi về Bộ Tư pháp chậm nhất là 07 ngày, kể từ ngày chốt số liệu.

2. Báo cáo trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật

a) Kỳ báo cáo: Định kỳ hàng năm.

b) Thời gian lấy số liệu của báo cáo và thời hạn gửi báo cáo về Bộ Tư pháp được thực hiện theo quy định của Chính phủ về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước.

II. Hình thức báo cáo và phương thức gửi, nhận báo cáo

1. Hình thức báo cáo

Báo cáo được thể hiện bằng một trong các hình thức sau:

a) Báo cáo bằng văn bản (là bản có chữ ký, họ tên của Thủ trưởng cơ quan báo cáo và đóng dấu phát hành theo quy định) và gửi kèm theo tệp dữ liệu điện tử. Các biểu mẫu tổng hợp số liệu kèm theo báo cáo phải được đóng dấu giáp lai.

b) Báo cáo bằng văn bản điện tử có chữ ký số.

2. Phương thức gửi, nhận báo cáo

Báo cáo được gửi đến cơ quan nhận báo cáo bằng một trong các phương thức sau:

a) Gửi trực tiếp;

b) Gửi qua dịch vụ bưu chính;

c) Gửi qua fax;

d) Gửi qua hệ thống thư điện tử dưới dạng tệp ảnh (định dạng PDF) hoặc văn bản điện tử có ký số;

đ) Phương thức khác theo quy định của pháp luật.

III. Nội dung báo cáo

1. Báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Cơ quan lập báo cáo có trách nhiệm báo cáo đầy đủ, trung thực, chính xác các nội dung trong Mẫu Đề cương báo cáo và các biểu mẫu số liệu báo cáo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Thông tư số 16/2018/TT-BTP.

2. Báo cáo trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật

Cơ quan lập báo cáo có trách nhiệm báo cáo đầy đủ, trung thực, chính xác  các nội dung trong Mẫu Đề cương báo cáo và các biểu mẫu số liệu báo cáo quy định tại khoản 2 Điều 2 của Thông tư số 16/2018/TT-BTP.

3. Các tổ chức thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm báo cáo đồng thời, đầy đủ, trung thực, chính xác các nội dung trong Mẫu Đề cương báo cáo và các biểu mẫu số liệu báo cáo quy định tại Điều 2 của Thông tư số 16/2018/TT-BTP đến cơ quan cấp trên quản lý trực tiếp và Ủy ban nhân dân cùng cấp nơi tổ chức thuộc cơ quan Trung ương đóng trụ sở.

 

Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp không tổng hợp số liệu báo cáo của các tổ chức thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn vào báo cáo gửi đến cơ quan nhận báo cáo.

IV. Chỉnh lý, bổ sung báo cáo

1. Trường hợp phải chỉnh lý, bổ sung nội dung, số liệu trong báo cáo, cơ quan lập báo cáo có trách nhiệm gửi báo cáo đã được chỉnh lý, bổ sung, kèm theo văn bản giải trình rõ về việc chỉnh lý, bổ sung và phải có chữ ký xác nhận, đóng dấu.

2. Trường hợp tự ý tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung báo cáo, số liệu trong báo cáo và các biểu mẫu số liệu báo cáo kèm theo thì báo cáo, biểu mẫu đó không có giá trị báo cáo.

V. Phương pháp xây dựng báo cáo theo dõi tình thi hành pháp luật

Trên cơ sở quy định tại Thông tư số 16/2018/TT-BTP nêu trên, để việc xây dựng, ban hành báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật đảm bảo nội dung, theo đúng quy định của pháp luật, cần nắm rõ các nội dung, yêu cầu sau đây:

1. Xác định kỳ báo cáo, thời gian lấy số liệu báo cáo và thời hạn báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật

Tùy theo mục đích, yêu cầu của bản báo cáo, báo cáo định kỳ hàng năm, quý, tháng hay báo cáo chuyên đề mà người xây dựng báo cáo xác định thời điểm lấy số liệu báo cáo. Báo cáo trong công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật được xây dựng định kỳ hàng năm, báo cáo chuyên đề hoặc báo cáo đột xuất.

Theo quy định tại khoản 6, khoản 7 và khoản 8 Điều 1 Nghị định số 32/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật thì:

- Đối với Bộ Tư pháp:

Hằng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước chậm nhất vào ngày 25 tháng 12 của kỳ báo cáo.

Thời gian chốt số liệu báo cáo tính từ ngày 15 tháng 12 của năm trước kỳ báo cáo đến ngày 14 tháng 12 của kỳ báo cáo.

- Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

Hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật chậm nhất vào ngày 10 tháng 12 của kỳ báo cáo.

Thời gian chốt số liệu báo cáo tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước kỳ báo cáo đến ngày 30 tháng 11 của kỳ báo cáo.”

- Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

Hằng năm Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Bộ Tư pháp về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật chậm nhất vào ngày 10 tháng 12 của kỳ báo cáo.

Thời gian chốt số liệu báo cáo tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước kỳ báo cáo đến ngày 30 tháng 11 của kỳ báo cáo.

- Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã

Thực hiện việc báo cáo về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp.

2. Xây dựng Đề cương báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật

Theo Phụ lục số 2 ban hành kèm theo Thông tư số 16/2018/TT-BTP, Đề cương báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật bao gồm những nội dung cơ bản sau:

a) Công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ theo dõi tình hình thi hành pháp luật:

- Những ưu điểm và kết quả đạt được;

- Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

b) Kết quả theo dõi tình hình thi hành pháp luật

- Đánh giá chung về tình hình thi hành pháp luật

+ Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thuộc thẩm quyền.

+ Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật.

+ Tình hình tuân thủ pháp luật.

- Tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm liên ngành, lĩnh vực cụ thể được lựa chọn theo dõi thi hành pháp luật

+ Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm thuộc thẩm quyền.

+ Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật.

+ Tình hình tuân thủ pháp luật.

c) Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

- Tồn tại, hạn chế

+ Tồn tại, hạn chế về tình hình thi hành pháp luật.

+ Tồn tại, hạn chế về tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm liên ngành, lĩnh vực cụ thể được lựa chọn theo dõi thi hành pháp luật.

- Nguyên nhân

d) Đề xuất, kiến nghị

- Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

- Đối với các Bộ, ngành địa phương.

- Đối với các cơ quan khác.

3. Xây dựng hệ thống biểu mẫu kèm theo báo cáo (02 biễu mẫu)

Theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 16/2018/TT-BTP, mẫu Đề cương báo cáo và các biểu mẫu sử dụng để tổng hợp số liệu báo cáo kèm theo báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, gồm:

- Mẫu số 1 là Bảng tổng hợp số liệu báo cáo về tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thuộc thẩm quyền.

- Mẫu số 2 là Bảng tổng hợp số liệu báo cáo về tình hình tuân thủ pháp luật  của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền và cá nhân, tổ chức.

4. Tổng hợp, chỉnh lý, bổ sung số liệu báo cáo

a) Tổng hợp số liệu

Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 Thông tư số 16/2018/TT-BTP, các tổ chức thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc, gồm: Công an nhân dân; Bộ đội biên phòng; Cảnh sát biển; Hải quan; Kiểm ngư; Thuế; Quản lý thị trường; Cơ quan thi hành án dân sự; Kho bạc Nhà nước; Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước; tổ chức Thống kê tập trung; Bảo hiểm xã hội tỉnh, huyện và các tổ chức khác thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc theo quy định của pháp luật.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp không tổng hợp số liệu báo cáo của các tổ chức thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn vào báo cáo gửi đến cơ quan nhận báo cáo.

b) Chỉnh lý, bổ sung báo cáo

- Trường hợp phải chỉnh lý, bổ sung nội dung, số liệu trong báo cáo, cơ quan lập báo cáo có trách nhiệm gửi báo cáo đã được chỉnh lý, bổ sung, kèm theo văn bản giải trình rõ về việc chỉnh lý, bổ sung và phải có chữ ký xác nhận, đóng dấu.

- Trường hợp tự ý tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung báo cáo, số liệu trong báo cáo và các biểu mẫu số liệu báo cáo kèm theo thì báo cáo, biểu mẫu đó không có giá trị báo cáo.

5. Viết dự thảo báo cáo

Trên cơ sở bám sát Đề cương và các phụ lục của Báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật quy định tại Thông tư số 16/2018/TT-BTP, người viết dự thảo báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật hàng năm hay báo cáo chuyên đề cần lưu ý một số nội dung sau:

- Báo cáo viết bằng ngôn ngữ phổ thông, nêu các sự kiện, nhận định, đánh giá, có thể dùng chữ số để minh họa, trình bày theo lối biểu mẫu, theo sơ đồ và các bản đối chiếu nếu xét thấy dễ hiểu và ngắn gọn hơn. Nên dùng cách hành văn rõ ràng, mạch lạc, thiết thực, không nên dùng lối hành văn cầu kỳ.

- Bảo đảm trung thực, chính xác của các thông tin trong báo cáo:

Khi đánh giá việc theo dõi thi hành pháp luật, cần dùng các sự kiện, số liệu khách quan và chính xác, trích dẫn đầy đủ các nguồn thông tin về số liệu, sự kiện nêu trong báo cáo. Không nên dùng từ ngữ thể hiện tính chủ quan, một chiều hoặc quá khoa trương mà không có căn cứ, cơ sở sẽ làm cho người đọc thiếu tin tưởng. Nội dung thông tin nêu trong báo cáo phảo phản ánh đúng sự thật khách quan, nêu đúng ưu điểm, khuyết điểm, thuận lợi, khó khăn, việc đã giải quyết, việc còn tồn đọng, không được hư cấu hoặc chủ quan duy ý chí.

Người trực tiếp soạn thảo báo cáo không được thiên vị, không thêm bớt hiện tượng nhằm bóp méo sự thật, phải trung thực và khách quan, toàn diện trong cách đưa tin và nhận xét, đánh giá trong báo cáo. Cần phải theo dõi, nghiên cứu sâu sát quá trình diễn biến sự việc, hiện tượng để tìm hiểu nguyên nhân phản ánh và báo cáo. Nếu sự thật bị cắt xén, xác định sai nguyên nhân, đưa ra những nguồn thông tin không chính xác, không toàn diện sẽ làm lãnh đạo đưa ra các giải pháp không đúng, xử lý thiếu kịp thời và không triệt để.

 - Nội dung báo cáo phải cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm:

Người soạn thảo phải đầu tư thời gian, chọn lọc các số liệu và sự kiện về các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ chính của tổ chức mình để đưa vào báo cáo, không nên liệt kê tràn lan mọi sự việc, hiện tượng xảy ra. Tập hợp được số liệu, ăn khớp với nhau là việc làm cần thiết, song đòi hỏi phải biết lập luận để thấy được ưu khuyết điểm thông qua những con số đó. Cần tránh những con số ma hoặc những sự kiện chung chung không chứng minh, không lý giải được điều gì. Trường hợp cần giải thích kỹ hơn thì có thể đính kèm báo cáo các bản phụ lục ghi các số liệu làm phương tiện chứng minh cho các kết luận trong báo cáo. Do đó, cần tránh việc xây dựng báo cáo chỉ thuần túy thống kê sự việc mà không rút ra được những kinh nghiệm, bài học trong việc triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

Người viết dự thảo báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật cần xuất phát từ mục đích, yêu cầu của từng loại báo cáo, xuất phát từ đối tượng đọc báo cáo mà có phương pháp viết báo cáo cho cụ thể, mạch lạc, hợp với người nghiên cứu. Tránh báo cáo tràn lan, sa vào các chi tiết rườm rà, các số liệu rắc rối mà phải chọn đúng trọng tâm, trọng điểm.

6. Lấy ý kiến dự thảo báo cáo theo dõi thi hành pháp luật

Báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật được xây dựng trên cơ sở tổng hợp rất nhiều nguồn thông tin khác nhau của cơ quan nhà nước, do đó, Báo cáo này cần được cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo tổ chức các cuộc họp, hội nghị hoặc gửi dự thảo lấy ý kiến các cơ quan, đơn vị liên quan. Trên cơ sở ý kiến góp ý, cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo sẽ tổng hợp, chỉnh lý dự thảo báo cáo đảm bảo tính chính xác, thống nhất và khách quan của Báo cáo.

7. Trình Lãnh đạo xem xét thông qua dự thảo và ký ban hành

Dự thảo Báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật được gửi đến cấp có thẩm quyền xem xét thông qua và ký ban hành. Hồ sơ dự thảo Báo cáo trình cấp có thẩm quyền bao gồm đầy đủ các tài liệu như: Tờ trình, dự thảo báo cáo và các Biểu mẫu kèm theo. Thông thường, các Báo cáo này do lãnh đạo cơ quan đơn vị được giao phụ trách công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật ký ban hành.

VI. Trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo theo dõi tình hình thi hành pháp luật

Báo cáo định ký hàng năm về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành nên phải tuân thủ theo các quy định của Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24/01/2019 của Chính phủ quy định về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước.

Theo đó, cán bộ, công chức và cá nhân, tổ chức có liên quan phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng quy trình, thời hạn của các chế độ báo cáo; phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc chia sẽ, cung cấp thông tin, số liệu báo cáo khi được yêu cầu và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin, số liệu báo cáo do mình cung cấp; người ký báo cáo phải đúng thẩm quyền, phù hợp với từng loại báo cáo và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân báo cáo. Cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức và cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm quy định tại Nghị định số 09/2019/NĐ-CP thì tùy theo tính chất, mức độ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật./.

CHUYÊN ĐỀ 5

NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

 

 
 

 

 

 

          Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2020. Luật có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2022 (sau đây gọi là Luật số 67/2020/QH14).

Luật số 67/2020/QH14 được thông qua đã đánh dấu một bước phát triển mới trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013, trừ các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định thì có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014. Sau quá trình triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Xử lý vi phạm hành chính đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập lớn, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn, cụ thể:

Một là, đối với quy định chung tại Phần thứ nhất của Luật Xử lý vi phạm hành chính, những khó khăn, vướng mắc tập trung chủ yếu vào các vấn đề như: Quy định về giải thích từ ngữ “tái phạm” vẫn còn có những cách hiểu khác nhau; sự không thống nhất giữa quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 và điểm b khoản 1 Điều 10 về việc xử lý đối với trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”; tại Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về những hành vi bị nghiêm cấm, tuy nhiên, trên thực tế, còn một số hành vi vi phạm thường xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật nhưng chưa được Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định là hành vi bị nghiêm cấm ...

Hai là, đối với công tác xử phạt vi phạm hành chính, những khó khăn, vướng mắc chủ yếu tập trung vào các vấn đề như: Mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực còn quá thấp, thiếu tính răn đe; sự thay đổi tên gọi, chức năng, nhiệm vụ của một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính dẫn đến thay đổi về thẩm quyền xử phạt; thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền dẫn đến tình trạng dồn quá nhiều vụ việc lên cơ quan cấp trên; thiếu quy định về việc cấp trưởng được giao quyền cho cấp phó trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính; các quy định về thời hạn, thời hiệu thực hiện các công việc chưa phù hợp thực tế; thủ tục thực hiện một số công việc (như lập biên bản vi phạm hành chính, giải trình…) chưa cụ thể; quy định về việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ trong việc phát hiện vi phạm hành chính cũng gặp một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng do phạm vi lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ còn hạn hẹp, chưa có quy định cụ thể về quy trình “chuyển hóa” kết quả thu được từ các phương tiện, thiết bị do các cá nhân, tổ chức cung cấp thành chứng cứ để xác định vi phạm hành chính; thủ tục xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính còn nhiều bất cập; chưa có quy định về việc hoãn thi hành quyết định phạt, giảm, miễn tiền phạt cho đối tượng vi phạm hành chính là tổ chức, chưa có quy định về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính…

Ba là, đối với việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: Việc quy định điều kiện, đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành khiến cho việc triển khai công tác này trên thực tế rất hạn chế (đặc biệt là quy định thực hiện hành vi vi phạm “02 lần trở lên trong 06 tháng”); quy định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với đối tượng nhiều lần thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong một số trường hợp không có sự thống nhất với quy định của Bộ luật hình sự; thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bị kéo dài không cần thiết do đối tượng phải trải qua biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; các quy định liên quan đến trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn rườm rà, nhiều quy định chưa thống nhất; một số quy định thiếu tính khả thi; thiếu quy định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người sử dụng trái phép chất ma túy ...

Bốn là, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật hiện hành cũng gặp nhiều vướng mắc, bất cập, cụ thể là: Việc quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính quá hạn hẹp; chưa có quy định cụ thể việc thẩm quyền tạm giữ của một chức danh có bị giới hạn bởi thẩm quyền tịch thu của chức danh đó không (trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ có được vượt quá thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện không); thủ tục tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính còn rườm rà, chưa tạo điều kiện cho người có thẩm quyền thực thi nhiệm vụ trên thực tế…

Năm là, đối với công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, khó khăn, vướng mắc chủ yếu phát sinh trong công tác báo cáo định kỳ: Việc quy định chế độ báo cáo định kỳ 06 tháng thực tế đã và đang gây nhiều khó khăn cho các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo do quy định mật độ báo cáo định kỳ như vậy là quá dày, trong khi nội dung, yêu cầu báo cáo nhiều, phức tạp.

Bên cạnh đó, thời gian qua, một số Bộ luật, Luật mới được ban hành như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017); Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Quản lý ngoại thương năm 2017; Luật Dược năm 2016; Luật Thú y năm 2015; Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; Pháp lệnh Quản lý thị trường năm 2016; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017; Luật Cạnh tranh năm 2018; Luật Quản lý thuế năm 2019; Luật Chứng khoán năm 2019… đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải rà soát, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính.

Xuất phát từ những lý do trên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính là hết sức cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý và thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG LUẬT

1.  Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật

1.1. Tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính được xác định trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như thể chế hóa những chủ trương mới của Đảng nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, 6, 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.

1.2. Sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan trực tiếp đến những khó khăn, vướng mắc chủ yếu trong thực tiễn thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính.

1.3. Tăng cường tính công khai, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm dân chủ trong quy định về thủ tục xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, nhất là người chưa thành niên; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành, áp dụng pháp luật và quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong thực tiễn.

1.4. Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, trọng tâm là pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với pháp luật về phòng, chống ma túy, pháp luật hình sự; bảo đảm tính tương thích của các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với các điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đặc biệt là một số công ước quốc tế về quyền con người.

2. Mục đích

Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, trình tự, thủ tục trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và khắc phục tối đa những hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội.

III.  BỐ CỤC CỦA LUẬT

Luật số 67/2020/QH14 bố cục thành 03 điều, cụ thể:

- Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (có 75 khoản);

- Điều 2: Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14).

- Điều 3: Hiệu lực thi hành.

IV. NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT

Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung nội dung của 66/142 điều (trong đó 16 điều sửa đổi, bổ sung toàn diện), sửa kỹ thuật 11/142 điều, bổ sung mới 04 điều, bãi bỏ 03 điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành, với những nội dung mới cơ bản sau đây:

1. Về những quy định chung

 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số quy định chung tại Phần thứ nhất của Luật Xử lý vi phạm hành chính bao gồm: Sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm tái phạm (khoản 5 Điều 2); nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với vi phạm hành chính nhiều lần (điểm d khoản 1 Điều 3); thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (Điều 6); thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (Điều 4); hành vi bị nghiêm cấm (Điều 12), cụ thể:

1.1. Về thuật ngữ tái phạm

Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính về giải thích từ ngữ “tái phạm”, theo đó, tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó.

          1.2. Về xử lý hành vi vi phạm hành chính nhiều lần

Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định cụ thể về nguyên tắc xử phạt đối với từng hành vi trong trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”. Theo đó, một người thực hiện vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng.

Quy định này sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 3 và điểm b khoản 1 Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành do chưa có sự thống nhất trong áp dụng pháp luật trên thực tiễn đối với các trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần, cụ thể: Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định một người “vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”, trong khi đó, điểm b khoản 1 Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính lại quy định: “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng – là tình tiết được người có thẩm quyền xem xét khi quyết định xử phạt vi phạm hành chính (tức là chỉ xử phạt đối với 01 hành vi và áp dụng tình tiết tăng nặng vi phạm hành chính để tăng mức phạt trong khung quy định).

1.3. Về thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Điều 4 Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể: Bổ sung quy định Chính phủ được giao quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; đối tượng bị xử phạt; việc thi hành các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước bên cạnh thẩm quyền được giao quy định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập biên bản đối với vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Quy định này nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Bên cạnh đó, Luật cũng làm rõ hơn quy định về việc sử dụng biểu mẫu trong trong xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, biểu mẫu được sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Ngoài ra, Luật cũng bổ sung quy định tại Điều 4 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kiểm toán nhà nước và đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng theo hướng giao Ủy ban thường vụ Quốc hội, căn cứ quy định của Luật này để quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kiểm toán nhà nước và đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng.

 

1.4. Về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính

Liên quan đến thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điểm của khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, theo đó:

(i) Tăng thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa đơn lên 02 năm, đồng thời, quy định rõ vi phạm hành chính về thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế (theo Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành, lĩnh vực thủ tục thuế có thời hiệu xử phạt là 02 năm).

(ii) Sửa đổi quy định về thời hiệu áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với những nội dung được sửa đổi, bổ sung về các biện pháp xử lý hành chính.

(iii) Bổ sung quy định về việc tính thời hiệu trong trường hợp cá nhân cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo hướng thời hiệu được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

1.5. Về những hành vi bị nghiêm cấm

Qua thực tiễn triển khai thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, có thể thấy một số sai phạm của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thường xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật nhưng chưa được Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định là hành vi bị nghiêm cấm. Chính vì vậy, để bảo đảm tính nghiêm minh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong xử lý vi phạm hành chính, Luật số 67/2020/QH14 bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm trong xử lý vi phạm hành chính tại Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính như: Xác định hành vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả không đúng, không đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính; không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.

2. Về xử phạt vi phạm hành chính

2.1. Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực

Mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định từ năm 2012 (thời điểm ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính). Tại thời điểm hiện nay, mức phạt tiền này đối với một số lĩnh vực quá thấp so với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, sau gần 08 năm (tính từ thời điểm ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính), một số hành vi vi phạm trong các lĩnh vực xảy ra ngày càng phổ biến, tinh vi, nguồn thu lợi bất hợp pháp là rất lớn, gây hậu quả lớn đến xã hội, làm thiệt hại kinh tế, thậm chí làm ảnh hưởng tới tính mạng, sức khỏe của người dân nhưng mức phạt tối đa áp dụng đối với hành vi vẫn chưa tương xứng với tính chất, mức độ của vi phạm, thiếu tính răn đe và không đủ sức phòng ngừa, hạn chế vi phạm hành chính mới. Bên cạnh đó, việc bổ sung mức tiền phạt tối đa tại Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính đối với một số lĩnh vực mới đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý làm căn cứ pháp lý để Chính phủ quy định mức phạt tiền cụ thể trong quá trình thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính những năm qua cũng rất cần thiết. Thêm nữa, tên gọi một số lĩnh vực quy định tại Điều 24 của Luật cũng có sự thay đổi trong các luật được thông qua sau khi Luật Xử lý vi phạm hành chính được ban hành nên cũng cần chỉnh sửa cho thống nhất.

Để bảo đảm sự phù hợp, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng (i) tăng mức phạt tối đa trong một số lĩnh vực; (ii) bổ sung mức phạt tối đa cho một số lĩnh vực chưa được quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính; (iii) chỉnh sửa tên gọi một số lĩnh vực cho phù hợp với các Luật hiện hành ban hành sau Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể:

 (i) Tăng mức phạt tiền tối đa của 10 lĩnh vực như:

- Giao thông đường bộ: từ 40 triệu lên 75 triệu

- Phòng, chống tệ nạn xã hội: từ 40 triệu lên 75 triệu

- Cơ yếu: từ 50 triệu lên 75 triệu

- Quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia: từ 50 triệu lên 75 triệu

- Giáo dục: từ 50 triệu lên 75 triệu

- Điện lực: từ 50 triệu lên 100 triệu

- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: từ 100 triệu lên 200 triệu

- Thủy lợi: từ 100 triệu lên 250 triệu

- Báo chí:từ 100 triệu lên 250 triệu

- Kinh doanh bất động sản: từ 150 triệu lên 500 triệu

 (ii) Bổ sung quy định mức phạt tiền tối đa của 08 lĩnh vực, như: Đối ngoại; cứu nạn, cứu hộ; an ninh mạng; an toàn thông tin mạng; kiểm toán nhà nước; cản trở hoạt động tố tụng; bảo hiểm thất nghiệp; in.

 (iii) Sửa đổi tên của một số lĩnh vực như: Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giống vật nuôi, cây trồng thành trồng trọt; sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi thành chăn nuôi; dạy nghề thành giáo dục nghề nghiệp; quản lý rừng, lâm sản thành lâm nghiệp; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác thành hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; hạn chế cạnh tranh thành cạnh tranh; quản lý công trình thủy lợi; bảo vệ nguồn lợi thủy sản thành thủy sản.

2.2. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với từng lĩnh vực đã được quy định tương đối đầy đủ tại Chương II Luật Xử lý vi phạm hành chính và được cụ thể hóa tại các nghị định xử phạt trong từng lĩnh vực; việc quy định những chức danh này là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của từng lực lượng cụ thể. Tuy nhiên, sau quá trình triển khai thi hành, một số quy định liên quan đến thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã nảy sinh những vướng mắc, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính liên quan đến thẩm quyền xử phạt của các chức danh là một trong những yêu cầu cần thiết được đặt ra khi xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các nội dung về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính như sau:

Một là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung tên gọi/ bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính xuất phát từ việc, hiện nay, một số cơ quan, đơn vị được sắp xếp lại tổ chức bộ máy, chính vì vậy, cơ cấu, tổ chức, tên gọi của một số cơ quan, đơn vị cũng như các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã có sự thay đổi, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một số chức danh mới có thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh vực quản lý nhà nước cũng như bãi bỏ một số chức danh đã được quy định trong Luật nhưng hiện nay không còn thẩm quyền xử phạt. Theo đó, Luật đã bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt theo Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành như: Tổng cục trưởng Tổng cục Dữ trữ nhà nước; Cục trưởng Cục Dự trữ khu vực, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Trưởng ban thi đua khen thưởng Trung ương (Điều 46), một số chức danh trong lực lượng Công an nhân dân (Điều 39) do thay đổi cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ…; đồng thời bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt như Kiểm ngư viên, Trạm trưởng trạm Kiểm ngư thuộc Chi cục Kiểm ngư vùng, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng, Cục trưởng Cục Kiểm ngư (Điều 43a), Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh quốc gia (Điều 45a), Trưởng đoàn kiểm toán, Kiểm toán trưởng (Điều 48a), một số chức danh trong lực lượng Công an nhân dân (Điều 39), Bộ đội biên phòng (Điều 40) và Quản lý thị trường (Điều 45).

Ngoài ra, Luật cũng đã bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt của cơ quan Thi hành án dân sự. Khoản 5 Điều 49 của Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định thẩm quyền xử phạt của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, tuy nhiên Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14) không quy định thẩm quyền xử phạt của chức danh này nên chưa bảo đảm tính thống nhất. Thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính thời gian qua cho thấy, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự vẫn thực hiện thẩm quyền xử phạt theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, để bảo đảm thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với thực tiễn thi hành, Luật Xử lý vi phạm hành chính đã bổ sung thẩm quyền xử phạt của Tổng cục trưởng Tổng cục thi hành án dân sự vào khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự (Điều 2 Luật số 67/2020/QH14).

Hai là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi quy định về thẩm quyền xử phạt của một số chức danh theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể:

(i) Tăng thẩm quyền phạt tiền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện (điểm b khoản 2 Điều 38) và Giám đốc Công an cấp tỉnh (điểm b khoản 5 Điều 39) từ 50.000.000 đồng lên 100.000.000 đồng.

(ii) Bổ sung thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả cho một số chức danh thuộc Bộ đội Biên phòng (Điều 40) để bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ cũng như đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Theo đó, ngoài thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì Luật số 67/QH14 bổ sung Đồn trưởng Đồn biên phòng, Hải đội trưởng Hải đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh, Hải đoàn trưởng Hải đoàn biên phòng, Cục trưởng Cục Phòng chống ma túy và tội phạm thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu “quả buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện” quy định tại điểm d khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

(iii) Sửa đổi thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức danh từ Điều 38 đến Điều 49 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng: Bên cạnh thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức danh là cấp cuối cùng của mỗi lực lượng đã được Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định, Luật sửa đổi quy định các chức danh (tại điểm d khoản 2 Điều 38, điểm d khoản 5 Điều 39, điểm c khoản 4 Điều 44, điểm c khoản 3 Điều 45, điểm d khoản 2 Điều 47, điểm c khoản 4 Điều 49) có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện. Các chức danh khác ở cấp cơ sở có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện có giá trị không vượt quá 02 lần mức tiền phạt theo thẩm quyền (các chức danh tại điểm c khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 3 và điểm d khoản 4 Điều 39, điểm c khoản 4 và điểm c khoản 5 Điều 41, điểm c khoản 2, điểm c khoản 3 và điểm c khoản 4 Điều 43, điểm c khoản 3 Điều 44, điểm c khoản 2 Điều 45, điểm c khoản 1, điểm d khoản 2 và điểm d khoản 3 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm c khoản 1, điểm c khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 48, điểm c khoản 2 Điều 49).

Quy định này nhằm khắc phục vướng mắc liên quan đến cách quy định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Theo đó, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức danh chỉ giới hạn đối với tang vật, phương tiện có giá trị không vượt quá mức tiền phạt. Quy định này của Luật Xử lý vi phạm hành chính bộc lộ nhiều bất cập, làm phát sinh quá nhiều vụ việc vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt của cơ quan cấp dưới và bị dồn lên cơ quan cấp trên do trong hầu hết các vụ vi phạm, giá trị của các tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính đều vượt quá mức phạt tiền thuộc thẩm quyền xử phạt quy định đối với các chức danh có thẩm quyền xử phạt ở cấp cơ sở.

Ba là, Điều 53 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định về vấn đề liên quan đến việc thay đổi tên gọi của chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Theo đó, trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên gọi thì chức danh đó có thẩm quyền xử phạt. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của một chức danh trong một số trường hợp như: có sự thay đổi về tên gọi, đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc không có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Vì vậy, Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 53 quy định cụ thể về những trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt có sự thay đổi về tên gọi, đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc không có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên gọi nhưng không có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó được giữ nguyên.

Trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bốn là, liên quan đến vấn đề giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, Luật Xử lý vi phạm hành chính đã quy định vấn đề giao quyền xử phạt cho cấp phó tại Điều 54 (giao quyền xử phạt); khoản 2 Điều 87 (giao quyền cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính); khoản 2 Điều 123 (giao quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính). Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa có quy định cụ thể về việc giao cho cấp phó có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính cũng như các quyết định khác trong xử lý vi phạm hành chính. Đây là vấn đề tương đối phức tạp và áp dụng nhiều trong thực tiễn. Trong quá trình triển khai, áp dụng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính về vấn đề này, đã có những cách hiểu và áp dụng khác nhau, ví dụ: Có quan điểm cho rằng, Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ quy định về việc giao quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền trong 03 trường hợp nêu trên, vì vậy, ngoài 03 trường hợp này thì cấp trưởng không được giao quyền cho cấp phó. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng, cấp trưởng được giao quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền của mình trong tất cả các quyết định liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính, riêng trường hợp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (khoản 2 Điều 87 Luật Xử lý vi phạm hành chính) và tạm giữ người theo thủ tục hành chính (khoản 2 Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính) là những trường hợp đặc biệt, bởi vì, đây là những biện pháp trực tiếp ảnh hưởng đến quyền tự do thân thể, quyền tài sản của tổ chức cá nhân, cho nên Luật quy định chặt chẽ hơn theo hướng chỉ cho phép cấp trưởng giao quyền cho cấp phó “khi cấp trưởng vắng mặt”.

Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nêu trên, Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 54 theo hướng quy định về việc cấp trưởng giao quyền cho cấp phó áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 119 của Luật Xử lý vi phạm hành chính; đồng thời, Luật cũng quy định rõ văn bản giao quyền phải được thể hiện bằng quyết định.

2.3. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Có thể thấy, trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính đã có những điểm mới, tiến bộ, dân chủ (như việc quy định quyền, thủ tục giải trình của đối tượng vi phạm tại Điều 61; nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính tại điểm đ khoản 1 Điều 3...). Điều này đã đáp ứng được yêu cầu phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh đối với mọi hành vi vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật, những khó khăn, vướng mắc liên quan đến trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cũng đã nảy sinh, điển hình là những khó khăn, vướng mắc lớn sau đây, đòi hỏi phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính. Chính vì vậy, một trong những nội dung quan trọng khi sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính là sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt để bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính thời gian qua:

Một là, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định thời gian tiến hành một số công việc quá ngắn, chưa phù hợp thực tế, không bảo đảm tính khả thi; thủ tục thực hiện một số công việc cũng chưa cụ thể dẫn đến sự lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật (thủ tục lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, giải trình…)… Do vậy, Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập kể trên, cụ thể là:

- Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định về lập biên bản vi phạm hành chính (Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính) theo hướng quy định nguyên tắc “phải kịp thời lập biên bản” và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định cụ thể về thời hạn lập biên bản để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay, bảo đảm phù hợp với từng lĩnh vực quản lý nhà nước; đồng thời, quy định cụ thể về địa điểm lập biên bản, nội dung biên bản và bổ sung quy định về việc lập biên bản vi phạm hành chính qua phương thức điện tử và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này; đồng thời, Luật cũng bổ sung quy định liên quan đến trường hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính xác các nội dung quy định thì phải tiến hành xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính để làm căn cứ ra quyết định xử phạt. Ngoài ra, một trong những điểm mới nổi bật liên quan đến việc lập biên bản vi phạm hành chính là Luật quy định về việc gửi biên bản vi phạm hành chính, theo đó, biên bản vi phạm hành chính có thể được lập, gửi bằng phương thức điện tử đối với trường hợp cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về các trường hợp và thủ tục giải trình tại Điều 61 Luật Xử lý vi phạm hành chính nhằm bảo đảm tính khả thi trên thực tế, đồng thời, bảo đảm nâng cao hơn nữa quyền giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm. Theo đó, đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc quy định mức tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

Về thời hạn giải trình, Luật sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn đối với trường hợp giải trình bằng văn bản, theo đó, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải gửi văn bản giải trình cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính từ “trong thời hạn không quá 05 ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì người có thẩm quyền xử phạt có thể gia hạn nhưng không quá 05 ngày làm việc theo đề nghị của cá nhân, tổ chức vi phạm. Đồng thời, Luật quy định rõ việc gia hạn của người có thẩm quyền xử phạt phải bằng văn bản. Đối với trường hợp giải trình trực tiếp, Luật sửa quy định về việc người có thẩm quyền xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho người vi phạm về thời gian và địa điểm tổ chức phiên giải trình trực tiếp từ “trong thời hạn 05 ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ ngày nhận được yêu cầu của người vi phạm.

Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Luật đã bổ sung 01 khoản quy định về trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không yêu cầu giải trình nhưng trước khi hết thời hạn lại có yêu cầu giải trình thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm.

- Về thời hạn định giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định đối với những tang vật phải thành lập Hội đồng định giá để xác định giá trị thì thời gian quy định là 24 giờ kể từ thời điểm ra Quyết định tạm giữ tang vật, nếu cần thiết có thể kéo dài thêm nhưng không được quá 24 giờ (tổng cộng tối đa là 48 giờ). Có thể thấy thời gian này là không phù hợp vì việc thành lập Hội đồng định giá, việc tổ chức định giá đối với những vụ vi phạm mà tang vật là hàng hóa nhập lậu có giá trị, đặc biệt ở các khu vực biên giới, biển, đảo rất khó khăn. Hơn nữa, có nhiều vụ vi phạm tang vật là nhiều chủng loại hàng hóa, hàng hóa phức tạp, khó xác minh trị giá…, việc xác định giá trị trong khoảng thời gian 24 giờ sẽ không đảm bảo tính chính xác. Do vậy, để tháo gỡ vướng mắc này, Luật đã sửa đổi thời hạn định giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính từ 24 giờ lên 48 giờ.

- Về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản. Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày. Quá trình thực hiện quy định nêu trên, các bộ, ngành, địa phương cho rằng, quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại khoản 1 Điều 66 là tương đối ngắn, đặc biệt là khi vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt. Chính vì vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng: Đối với vụ việc không thuộc trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản này, thời hạn ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật này;

Đối với vụ việc mà cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan quy định tại Điều 59 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 01 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính;

Đối với vụ việc thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.

Hai là, sửa đổi, bổ sung Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng mở rộng lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính. Theo đó, Luật đã bổ sung các lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống ma túy, phòng, chống tác hại của rượu, bia bên cạnh lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường. Đối với các lĩnh vực khác sẽ do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó, Luật quy định rõ ràng hơn về điều kiện, yêu cầu trong quản lý, sử dụng, quy định danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; điều kiện, yêu cầu trong sử dụng, bảo quản kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; đồng thời, giao Chính phủ quy định quy trình chuyển hóa kết quả thu được từ các phương tiện, thiết bị do các cá nhân, tổ chức cung cấp thành chứng cứ để xác định vi phạm hành chính.

Ba là, về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến vấn đề này nhằm khắc phục những bất cập phát sinh trong thực tiễn như việc xác minh chủ sở hữu phương tiện, việc xử lý đối với các phương tiện có giá trị thấp hoặc không còn giá trị rất khó khăn, mất nhiều thời gian; việc xử lý đối với tang vật, phương tiện đã quá thời hạn tạm giữ mà không xác định được chủ sở hữu/ người vi phạm hoặc chủ sở hữu/ người vi phạm không đến nhận; việc xử lý đối với tang vật, phương tiện do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu, cụ thể như sau:

- Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, khoản 4 Điều 126 đã sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể, rõ ràng hơn việc thông báo, niêm yết công khai về tang vật, phương tiện bị tạm giữ (số lần thông báo, thời hạn thông báo, xử lý tài sản sau khi hết thời hạn thông báo, niêm yết công khai…).

Đồng thời, Luật số 67/2020/QH14 cũng quy định về việc xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu nhưng đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Theo đó, đối với trường hợp này thì bên nhận thế chấp được nhận lại tang vật, phương tiện hoặc trị giá tương ứng với nghĩa vụ được bảo đảm; cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước.

- Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, để bảo đảm thống nhất với quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật số 67/2020/QH14 quy định theo hướng viện dẫn: “Tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã có quyết định tịch thu được xử lý theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công” (bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 81 Luật Xử lý vi phạm hành chính), đồng thời, bãi bỏ Điều 82 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

2.2.4. Về việc thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Trong thời gian qua, việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, trong đó có những khó khăn, vướng mắc xuất phát từ các quy định pháp luật và cả những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực thi các quy định pháp luật như chưa có quy định cụ thể về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; chưa quy định hoãn thi hành; giảm, miễn tiền phạt đối với tổ chức nên không kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ…

Để cơ bản giải quyết những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung về vấn đề này như sau:

Một là, Luật số 67/2020/QH14 quy định rõ hơn trường hợp không ra quyết xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn áp dụng tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định thì không bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính rõ ràng hơn khi áp dụng pháp luật tại Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể:

 (i) Người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính, nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó.

(ii) Đối với trường hợp hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính) thì không thi hành quyết định đó nữa, nhưng vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nếu quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả.

(iii) Đối với trường hợp hết thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế (quy định tại khoản 2a Điều 88 Luật Xử lý vi phạm hành chính) thì không thi hành quyết định cưỡng chế đó, nhưng vẫn phải cưỡng chế tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

Hai là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn, giảm, miễn tiền phạt tại Điều 76 và Điều 77 Luật XLVPHC theo hướng:

(i) Việc hoãn thi hành quyết định phạt tiền được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:

- Cá nhân bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng trở lên, tổ chức bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng trở lên.

- Cá nhân đang gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn; tổ chức đang gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh. Tùy từng trường hợp cụ thể, cá nhân, tổ chức phải có xác nhận của các cơ quan, tổ chức sau: Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến huyện trở lên; Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.

(ii) Việc giảm một phần tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt đối với cá nhân, tổ chức đã được hoãn thi hành quyết định phạt tiền được áp dụng khi:

- Cá nhân tiếp tục gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc.

- Tổ chức tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.

Ngoài ra, một trong những điểm mới liên quan đến quy định về hoãn, miễn giảm tiền phạt đó là việc Luật đã bổ sung quy định tổ chức cũng được miễn phần tiền phạt còn lại và miễn toàn bộ tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt bên cạnh quy định miễn tiền phạt cho cá nhân như Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Theo đó, để được miễn phần tiền phạt còn lại ghi trong quyết định xử phạt, tổ chức phải đáp ứng đủ các điều kiện, bao gồm:

(i) Đã được giảm một phần tiền phạt theo quy định tại khoản 1 Điều này hoặc đã nộp tiền phạt lần thứ nhất hoặc lần thứ hai trong trường hợp được nộp tiền phạt nhiều lần theo quy định tại Điều 79 của Luật này.

(ii) Đã thi hành xong hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định xử phạt.

(iii) Tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.

Bên cạnh đó, tổ chức cũng được miễn toàn bộ tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt khi đáp ứng đủ các điều kiện:

(i) Đã được hoãn thi hành quyết định phạt tiền theo quy định tại Điều 76 của Luật này.

(ii) Đã thi hành xong hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định xử phạt.

(iii) Tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.

Ba là, Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa có quy định về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, tại Điều 88 Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung quy định cụ thể về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

3. Về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

3.1. Về đối tượng, điều kiện áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến đối tượng và điều kiện áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại các Điều 90, 92, 94 và 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với Bộ luật hình sự; quy định về độ tuổi, số lần vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính... bảo đảm phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi, cụ thể:

- Quy định cụ thể các hành vi vi phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

- Làm rõ hơn quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng”, thống nhất trong cách áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

- Bỏ quy định về việc đối tượng phải vi phạm “02 lần trong 06 tháng” là điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc để tránh kéo dài thời gian áp dụng các biện pháp này;

- Bổ sung quy định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người sử dụng trái phép chất ma túy (Người từ đủ 14 tuổi trở lên đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy);

- Sửa đổi quy định về đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo hướng dẫn chiếu đến Luật Phòng, chống ma túy nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật; bỏ quy định áp dụng biện pháp “tiền đề” giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định;

- Bổ sung quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với 02 trường hợp: (i) người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép mà không phải là tội phạm; (ii) người từ đủ 18 tuổi trở lên đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình mà không phải là tội phạm.

3.2. Về thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công việc; sửa đổi các quy định tại khoản 1 Điều 98, khoản 3 Điều 99, khoản 3 Điều 101 và khoản 3 Điều 103 của Luật hiện hành liên quan đến thủ tục kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo hướng:

(i) Không quy định việc kiểm tra tính pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập;

(ii) Không quy định thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã đối với hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thay vào đó, Luật quy định rõ, cơ quan nào lập hồ sơ đề nghị thì phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ. Bởi vì, thực tế cho thấy quy định việc kiểm tra tính pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập không thật sự cần thiết, làm kéo dài thời gian xem xét, áp dụng.

3.3. Về việc quản lý đối tượng trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính

Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 131 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng:

Đối với người không có nơi cư trú ổn định hoặc có nơi cư trú ổn định nhưng gia đình không đồng ý quản lý thì cơ quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định (i) giao cho trung tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc (ii) giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người vi phạm cư trú hoặc có hành vi vi phạm tổ chức quản lý trong trường hợp bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Quy định nêu trên nhằm tháo gỡ vướng mắc của Điều 131 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành do quy định này hầu như không thể triển khai trong một thời gian dài.

4. Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính

4.1. Về biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính

Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định chỉ được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính trong trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác. Tuy nhiên, việc quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính như Luật hiện hành là tương đối hẹp, gây khó khăn cho việc thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, để bảo đảm tính đầy đủ, khắc phục bất cập trong thực tế hiện nay, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người có thẩm quyền trong thực hiện pháp luật, Luật đã bổ sung vào khoản 1 Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính một số trường hợp phải tạm giữ người theo thủ tục hành chính như: Để thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy bên cạnh các trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác và cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.

4.2. Về biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề

Một là, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung vào khoản 3 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định cụ thể: thẩm quyền tạm giữ không phụ thuộc vào giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Hai là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề tại các khoản 4 và 9 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng: (i) Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đang giải quyết vụ việc lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; sau đó, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo cáo thủ trưởng của mình là người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xem xét ra quyết định tạm giữ; (ii) Bỏ quy định về việc người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ phải ký vào biên bản tạm giữ.

5. Về biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung vào khoản 1 Điều 140 Luật Xử lý vi phạm hành chính đối tượng để quản lý tại gia đình đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi sử dụng trái phép chất ma túy bên cạnh các đối tượng tại khoản 3, khoản 4 Điều 90 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Bên cạnh đó, một trong những điểm mới của Luật số 67/2020/QH14 so với Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành là việc bổ sung biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng là một trong các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên (Điều 140a) nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên. Theo đó, giáo dục dựa vào cộng đồng là biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự có nơi cư trú ổn định, đang theo học tại cơ sở giáo dục và cha mẹ, người giám hộ cam kết bằng văn bản về việc quản lý, giáo dục. Căn cứ vào quy định này, Tòa án nhân dân quyết định áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng.

Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề khác; tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại cộng đồng.

6. Về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Luật số 67/2020/QH14 đã bãi bỏ quy định về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật Xử lý vi phạm hành chính nhằm giảm bớt thủ tục và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


[1] Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 14/2014/TT-BTP 15/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định cho tiết thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2012 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật

[2] Chính phủ có thẩm quyền kiểm tra, các Bộ tự kiểm tra đối với phần nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các Bộ trong Thông tư liên tịch của Bộ trưởng, Thủ trưởng, cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

 

Tập tin đính kèm:
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 22.578.300
Lượt truy cập hiện tại 614