Theo đó, Nghị định 18/2021/NĐ-CP đã có nhiều quy định mới theo hướng siết chặt, tạo hành lang pháp lý, giúp cho công tác quản lý của cơ quan quản lý được thuận lợi và hướng Doanh nghiệp tuân thủ các quy định của pháp luật. Trong đó, so với quy định cũ liên quan đến quản lý hàng hóa gia công, sản xuất xuất khẩu.
Tại điểm g khoản 1 Điều 10 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP quy định miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để gia công, sản phẩm gia công xuất khẩu theo hợp đồng gia công được miễn thuế xuất nhập khẩu theo quy định tại khoản 6 Điều 16 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trong đó, bao gồm, sản phẩm gia công xuất khẩu. Trường hợp sản phẩm gia công xuất khẩu được sản xuất từ nguyên liệu, vật tư trong nước có thuế xuất khẩu thì khi xuất khẩu phải chịu thuế đối với phần trị giá nguyên liệu, vật tư trong nước cấu thành trong sản phẩm xuất khẩutheo thuế suất của nguyên liệu, vật tư.
Tuy nhiên, Nghị định 18/2021/NĐ-CP đã quy định rõ, sản phẩm gia công xuất khẩu ra nước ngoài hoặc xuất khẩu vào khu phi thuế quan, xuất khẩu tại chỗ cho tổ chức, cá nhân tại Việt Nam theo chỉ định của bên đặt gia công. Trong đó, sản phẩm gia công xuất khẩu được miễn thuế xuất khẩutheo quy định tại điểm này phải là sản phẩm được gia công từ toàn bộ hàng hóa xuất khẩu.
Nghị định 18/2021/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định về việc người nộp thuế hoặc tổ chức, cá nhân nhận gia công lại cho người nộp thuế phải có cơ sở sản xuất (có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng cơ sở gia công và máy móc, thiết bị tại cơ sở gia công) và thông báo cơ sở gia công, sản xuất (bao gồm cả cơ sở gia công lại), hợp đồng và phụ lục hợp đồng gia công (bao gồm cả hợp đồng và phụ lục gia công lại) theo quy định của pháp luật về hải quan để cơ quan Hải quan theo dõi, quản lý hàng hóa nhập khẩu đúng bản chất để gia công, phù hợp với quy định của pháp luật về hải quan.
Nghị định 18/2021/NĐ-CP cũng bổ sung quy định trường hợp người nộp thuế thông báo cơ sở gia công lại, hợp đồng gia công lại không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hải quan thì bị xử phạt vi phạm hành chính để phù hợp với Điều 7 Nghị định số 128/2020/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính (điểm b, khoản 2 Điều 10 Nghị định 134/2016/NĐ-CP không quy định việc xử phạt nếu người nộp thuế thông báo cơ sở gia công không đúng thời hạn).
Nghị định 18/2021/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định người nộp thuế (có hợp đồng gia công) giao một phần hoặc toàn bộ hàng hóa nhập khẩu hoặc bán thành phẩm được gia công từ toàn bộ hàng hóa nhập khẩu để thuê tổ chức, cá nhân khác nhận gia công lại tại khu phi thuế quan hoặc tại nước ngoài thì hàng hóa nhập khẩu, bán thành phẩm giao gia công lại được miễn thuế xuất khẩu và áp dụng chính sách thuế đối với sản phẩm gia công nhập khẩu trở lại Việt Nam.
Nghị định 18/2021/NĐ-CP cũng đã làm rõ trách nhiệm của người nộp thuế (người có hợp đồng gia công với thương nhân nước ngoài) phải quyết toán tình hình sử dụng hàng hóa nhập khẩu được miễn thuế để xác định chính xác hàng hóa đã được nhập khẩu miễn thuế. Bổ sung quy định hàng hóa nhập khẩu để gia công, phế liệu, phế phẩm tạo thành trong quá trình gia công xuất khẩu trả cho bên nước ngoài đặt gia công được miễn thuế xuất nhập khẩu (nếu bán cho bên thứ 3 ở nước ngoài thì không được miễn thuế).
Để phù hợp với khoản 12 Điều 1 Nghị định 59/2018/NĐ-CP quy định về hàng hóa thay đổi mục đích sử dụng, Nghị định 18/2021/NĐ-CP đã bổ sung quy định về xử lý thuế và thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu để gia công xuất khẩu nhưng sản phẩm không được xuất khẩu hoặc hàng hóa nhập khẩu dư thừa không xuất khẩu, người nộp thuế phải đăng ký tờ khai hải quan mới, kê khai nộp thuế với cơ quan Hải quan theo mức thuế suất và trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan mới (trừ trường hợp làm quà biếu, quà tặng theo quy định).
Đối với hàng nhập khẩu gia công, sản xuất xuất khẩu, nhằm nâng cao trách nhiệm của người nộp thuế và đảm bảo minh bạch về thủ tục hải quan, Nghị định 18/2021/NĐ-CP đã bổ sung quy định người xuất khẩu tại chỗ phải thông báo cho cơ quan Hải quan thông tin về tờ khai hải quan của sản phẩm nhập khẩu tại chỗ tương ứng đã hoàn thành thủ tục nhập khẩu trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông quan sản phẩm xuất khẩu tại chỗ để áp dụng chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu tại chỗ, đảm bảo quản lý chặt chẽ tờ khai xuất nhập khẩu tại chỗ.
Ngoài ra, Nghị định 18/2021/NĐ-CP cũng đã bổ sung quy định sản phẩm nhập khẩu tại chỗ đăng ký theo loại hình gia công được miễn thuế nhập khẩu để phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 16 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu người nộp thuế đăng ký loại hình khác thì phải nộp thuế theo quy định. Trường hợp người nhập khẩu tại chỗ đã nộp thuế nhập khẩu hàng hóa để sản xuất, kinh doanh và đưa sản phẩm nhập khẩu tại chỗ vào sản xuất hàng hóa xuất khẩu và thực tế đã xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài hoặc vào khu phi thuế quan thì được hoàn thuế nhập khẩu đã nộp theo quy định để phù hợp với quy định tại điểm d khoản 1 Điều 19 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, đảm bảo quyền lợi của Doanh nghiệpnhập khẩu tại chỗ.
Khoản 4 điều 1 Nghị định 18/2021/NĐ-CP đã bỏ quy định về tỷ lệ 3% của phế liệu, phế phẩm và nguyên liệu, vật tư dư thừa đã nhập khẩu để gia công để xử lý vướng mắc phát sinh trong thực tế của các hiệp hội, Doanh nghiệp, áp dụng chính sách thuế thống nhất giữa hàng gia công và hàng sản xuất nhập khẩu. Nghị định 18/2021/NĐ-CP sửa quy định về việc nộp thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường (nếu có) cho cơ quan Thuế để tạo thuận lợi cho Doanh nghiệp, tránh phát sinh vướng mắc khi kê khai, khấu trừ thuế.
Nghị định số 18/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 25/4/2021.