Tìm kiếm tin tức

 

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Thống kê lượt truy cập
Tổng truy cập 3.471.334
Truy cập hiện tại 8.419
MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI
Ngày cập nhật 15/06/2021

I. KHÁI NIỆM VỀ NUÔI CON NUÔI, Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI

1. Khái niệm về nuôi con nuôi

Nuôi con nuôi là việc một người đã trưởng thành (hoặc một cặp vợ chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp) nhận một hay nhiều trẻ em không do mình trực tiếp sinh ra làm con. Việc nhận nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ cha, mẹ - con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, tức là kể từ thời điểm nhận con nuôi, người nhận con nuôi có tư cách là cha, mẹ của trẻ em được nhận làm con nuôi.

Công ước Lahay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trên lĩnh lực con nuôi quốc tế quy định “khi một trẻ em thường trú ở một Quốc gia ký kết (Nước gốc) đã, đang hoặc sẽ được chuyển đến một Quốc gia ký kết khác (Nước nhận) sau khi đã được một cặp vợ chồng hay một người thường trú ở Quốc gia nhận làm con nuôi thì phải áp dụng Công ước này”.

Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định: nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Cha, mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký. Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.

Quan hệ gia đình, quan hệ cha, mẹ - con giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi được hình thành từ quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc và phải được nhà nước công nhận.

2. Ý nghĩa của chế định pháp luật về nuôi con nuôi

Trẻ em còn nhỏ, chưa phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ nên cần phải được bảo vệ, nuôi nấng, cần được trưởng thành trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình.

Trường hợp trẻ em không có cha mẹ thì cũng có quyền có một gia đình và được nhận làm con nuôi dưới hình thức hợp pháp nhằm đảm bảo cho trẻ em đó được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đầy đủ. Một trong những mục đích của Công ước Lahay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trên lĩnh lực con nuôi nước ngoài là “Thiết lập những bảo đảm để việc nuôi con nuôi quốc tế diễn ra vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được công nhận trong luật pháp quốc tế”.

Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng là một trong những quyền cơ bản của trẻ em đã được pháp luật Việt Nam quy định trong nhiều văn bản pháp luật. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) quy định: “trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (Khoản 1 Điều 37). Bộ luật dân sự năm 2015 thừa nhận quyền nuôi con nuôi là một quyền tự do dân sự của cá nhân, Điều 39 của Bộ luật dân sự quy định: “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình”. Khoản 2 Điều 24 của Luật trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi..

Nhằm bảo đảm trẻ em có quyền có gia đình, có cha, có mẹ, được yêu thương chăm sóc, được sống trong tình cảm của cha, tình yêu của mẹ, được lớn lên trong bầu không khí gia đình, được trưởng thành dưới sự giáo dục, định hướng của cha, mẹ; đồng thời, bảo đảm quyền được làm cha, làm mẹ của một số người không may mắn trong cuộc sống (như người bị vô sinh, hiếm muộn, phụ nữ đơn thân hoặc người đã có con nhưng con bị bệnh hiểm nghèo, con bị chết và người đó không còn khả năng sinh con...), pháp luật Việt Nam đã công nhận quyền nuôi con nuôi và quyền được làm con nuôi là một trong những quyền con người, quyền công dân được pháp luật tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật.

  II. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI

Luật nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011.

1. Một số quy định chung

1.1. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi

Việc nuôi con nuôi được giải quyết trên các nguyên tắc: khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước.

1.2. Thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế

Đối tượng điều chỉnh của Luật nuôi con nuôi là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt Nam, cũng như quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà cả hai bên hoặc một bên định cư ở nước ngoài. Người nhận con nuôi có thể là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; công dân Việt Nam thường trú ở trong nước; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở nước ngoài.

Do đó, khi một người được nhiều người xin nhận làm con nuôi, cần xem xét ưu tiên người nào có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi tốt nhất, không làm thay đổi quá nhiều môi trường sống của trẻ em.  Thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế được quy định như sau:

- Cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;

- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước;

- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;

- Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;

- Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài.

Trường hợp có nhiều người cùng hàng ưu tiên xin nhận một người làm con nuôi thì xem xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi tốt nhất.

1.3. Bảo hộ quyền nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi và khuyến khích hỗ trợ nhân đạo cho việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

a) Nhà nước bảo hộ quyền nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi theo quy định và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

b) Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ nhân đạo cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việc hỗ trợ nhân đạo không được ảnh hưởng đến việc cho nhận con nuôi.

c) Hỗ trợ, tiếp nhận, quản lý, sử dụng hỗ trợ nhân đạo ở cơ sở nuôi dưỡng

Việc hỗ trợ, tiếp nhận, quản lý, sử dụng hỗ trợ nhân đạo nhằm mục đích nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được thực hiện theo quy định tại Điều 7 của Luật nuôi con nuôi và khoản 3 Điều 1 Nghị định số 24/2019/NĐ-CP, pháp luật về tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản viện trợ, tài trợ cho các cơ sở nuôi dưỡng công lập và ngoài công lập và quy định cụ thể sau đây:

- Cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ nhân đạo thông qua chương trình, dự án, viện trợ phi dự án hoặc tài trợ cho Quỹ bảo trợ trẻ em.

- Khi hỗ trợ nhân đạo, cá nhân, tổ chức không được yêu cầu cơ sở nuôi dưỡng cho trẻ em làm con nuôi; cơ sở nuôi dưỡng không được cam kết cho trẻ em làm con nuôi vì lý do đã nhận hỗ trợ nhân đạo.

Trường hợp cá nhân, tổ chức hỗ trợ nhân đạo bằng tiền thì phải thực hiện thông qua tài khoản của cơ sở nuôi dưỡng.

- Khi hỗ trợ, tiếp nhận hỗ trợ nhân đạo, ngoài việc thực hiện theo quy định nêu trên, cha mẹ nuôi nước ngoài, tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam và cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm như sau:

+ Cha mẹ nuôi nước ngoài thông tin cho tổ chức con nuôi nước ngoài về các khoản hỗ trợ nhân đạo đã thực hiện ở Việt Nam;

+ Định kỳ 06 tháng và hằng năm hoặc theo yêu cầu, tổ chức con nuôi nước ngoài báo cáo Cục Con nuôi thuộc Bộ Tư pháp (sau đây gọi là Cục Con nuôi) các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi và của tổ chức;

+ Định kỳ 06 tháng và hằng năm hoặc theo yêu cầu, cơ sở nuôi dưỡng báo cáo việc tiếp nhận, sử dụng và quản lý các khoản hỗ trợ nhân đạo theo quy định của pháp luật và báo cáo Cục Con nuôi về việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi và tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam.

1.4. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi

Người được nhận làm con nuôi phải đáp ứng những điều kiện quy định tại Điều 8 của Luật nuôi con nuôi như sau:

- Trẻ em dưới 16 tuổi.

- Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ được nhận làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột.

- Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

- Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.

Theo quy định của Luật Trẻ em năm 2016 thì trẻ em là người dưới 16 tuổi.  

Trên thực tế, có những trường hợp các em đã trên 18 tuổi và còn đang đi học (học (học văn hóa, học nghề, học đại học, cao đẳng, trung cấp…) nhưng Luật nuôi con nuôi quy định các đối tượng này vẫn không thuộc trường hợp được nhận làm con nuôi, kể cả được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi. Vì theo quy định của Bộ luật dân sự, người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; đồng thời Luật hôn nhân gia đình cũng quy định độ tuổi kết hôn đối với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên; Luật thanh niên quy định độ tuổi của thanh niên là từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi. Như vậy, người từ đủ 18 tuổi trở lên là người đã trưởng thành, có thể tự mình xác lập các quan hệ dân sự, quan hệ xã hội và tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình, do đó không còn là đối tượng để được nhận làm con nuôi.

1.5.  Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi (Điều 9 Luật Nuôi con nuôi; Điều 2 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP; khoản 1 Điều 1 Nghị định số 24/2019/NĐ-CP)

a) Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước, cụ thể:

Đối với việc nuôi con nuôi trong nước, trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.

b) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, cụ thể:

Đối với việc nuôi con nuôi nước ngoài, thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi quyết định cho người đó làm con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi.

Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

c) Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài. 

d) Đối với việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau tạm trú ở nước ngoài, thì Cơ quan đại diện nơi tạm trú của người được nhận làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp cả hai bên tạm trú ở nước không có Cơ quan đại diện, thì người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện nào thuận tiện nhất đối với họ.

 1.6. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi

Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

1.7. Bảo đảm quyền được biết về nguồn gốc

 Con nuôi có quyền được biết về nguồn gốc của mình. Không ai được cản trở con nuôi được biết về nguồn gốc của mình. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho con nuôi là người Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương, đất nước.

1.8. Lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài

a) Người nhận con nuôi phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 114/2016/NĐ-CP thì lệ phí đăng ký nuôi con nuôi bao gồm: lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước là lệ phí thu đối với trường hợp công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi là công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam; lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài là lệ phí thu đối với trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi là công dân Việt Nam; người nước ngoài cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi; lệ phí đăng ký nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài là lệ phí thu đối với trường hợp công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài nhận con nuôi là công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài.

Người nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi bao gồm: Công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi là công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước khi nộp hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận con nuôi là công dân Việt Nam phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài khi nộp hồ sơ xin nhận con nuôi tại Cục Con nuôi (Bộ Tư pháp). Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi là công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi khi nộp hồ sơ xin nhận con nuôi tại Sở Tư pháp. Người nước ngoài cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi khi nộp hồ sơ xin nhận con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài nhận con nuôi là người Việt Nam tạm trú ở nước ngoài phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi khi nộp hồ sơ xin nhận con nuôi tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

 Cơ quan thu lệ phí: Ủy ban nhân dân cấp xã thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước và lệ phí đối với trường hợp người nước ngoài cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi. Sở Tư pháp thu lệ phí đối với trường hợp người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi là công dân Việt Nam. Cục Con nuôi (Bộ Tư pháp) thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài, trừ trường hợp nêu trên; lệ phí cấp, gia hạn giấy phép hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

 Mức thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi: mức thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước: 400.000 đồng/trường hợp. Mức thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi đối với trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận con nuôi là công dân Việt Nam: 9.000.000 đồng/trường hợp. Mức thu lệ phí thu đối với trường hợp người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi là công dân Việt Nam: 4.500.000 đồng/trường hợp. Mức thu lệ phí thu đối với trường hợp người nước ngoài cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi: 4.500.000 đồng/trường hợp. Mức thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài: 150 đô la Mỹ/trường hợp. Mức lệ phí này được quy đổi ra đồng tiền của nước sở tại theo tỷ giá bán ra của đồng đô la Mỹ do ngân hàng nơi cơ quan đại diện Việt Nam ở nước đó mở tài Khoản công bố.

Miễn lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước đối với các trường hợp sau: cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi; người nhận các trẻ em sau đây làm con nuôi: Trẻ khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo theo quy định của Luật nuôi con nuôi và văn bản hướng dẫn; người có công với cách mạng nhận con nuôi.

Giảm lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài đối với các trường hợp sau: cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi được giảm 50% mức lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài; nhận hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột làm con nuôi thì từ trẻ em thứ hai trở đi được giảm 50% mức lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài. Trường hợp nhận con nuôi thuộc cả hai trường hợp dược giảm trên đây thì người nộp lệ phí được lựa chọn áp dụng mức giảm lệ phí của một trong hai trường hợp. Miễn lệ phí đăng ký nuôi con nuôi đối với trường hợp đăng ký lại việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi.

b) Ngoài lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam phải trả một khoản tiền để bù đắp một phần chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài, bao gồm chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ khi được giới thiệu làm con nuôi đến khi hoàn thành thủ tục giao nhận con nuôi, xác minh nguồn gốc của người được giới thiệu làm con nuôi, giao nhận con nuôi và thù lao hợp lý cho nhân viên của cơ sở nuôi dưỡng.

Theo quy định tại Điều 47, 48, 49 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP thì mức thu chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài là năm mươi triệu đồng (50.000.000 đồng)/trường hợp. Khoản tiền này không bao gồm chi phí dịch vụ, đi lại, ăn ở và phí tổn phát sinh trên thực tế mà người nhận con nuôi trực tiếp chi trả, kể cả chi phí đưa trẻ em ra nước ngoài sau khi được giải quyết cho làm con nuôi. Cục Con nuôi có trách nhiệm thu chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài.

 Người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam phải nộp chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài khi người đó đồng ý nhận trẻ em Việt Nam được giới thiệu làm con nuôi. Người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam nhận trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo làm con nuôi được miễn nộp chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài. Trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận đích danh làm con gồm trẻ em bị sứt môi hở hàm ếch; trẻ em bị mù một hoặc cả hai mắt; trẻ em bị câm, điếc; trẻ em bị khoèo chân, tay; trẻ em không có ngón hoặc bàn chân, tay; trẻ em nhiễm HIV; trẻ em mắc các bệnh về tim; trẻ em không có hậu môn hoặc bộ phận sinh dục; trẻ em mắc các bệnh về máu; trẻ em bị khuyết tật khác hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác cần điều trị khẩn cấp hoặc cả đời.

Chế độ sử dụng chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài: cơ quan thu chuyển 95% mức chi phí cho ngân sách cấp tỉnh để phân bổ sử dụng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại địa phương, trong đó: 70% mức chi phí được sử dụng vào việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em và cải thiện các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nhu cầu, lợi ích của trẻ em; 15% mức chi phí được bổ sung quỹ lương và nâng cao năng lực cho nhân viên của cơ sở nuôi dưỡng; 5% mức chi phí được sử dụng vào việc xác minh nguồn gốc của trẻ em được cho làm con nuôi; 5% mức chi phí được sử dụng vào việc hoàn tất thủ tục và giao nhận con nuôi. Cơ quan, tổ chức sử dụng chi phí có trách nhiệm sử dụng hiệu quả, đúng mục đích phần chi phí được phân bổ, lập sổ sách theo dõi và định kỳ hằng năm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời gửi cho Sở Tư pháp tổng hợp để báo cáo Bộ Tư pháp. Cơ quan thu được trích lại 5% mức chi phí quy định tại khoản 1 Điều 47 của Nghị định này để chi cho việc thu và chuyển chi phí; xác nhận và cấp biên lai thu chi phí cho người nộp; lập sổ sách theo dõi, kiểm tra việc sử dụng khoản chi phí này bảo đảm đúng mục đích, có hiệu quả; tổng hợp và báo cáo công khai hằng năm về tình hình thu, nộp, sử dụng chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước trong phạm vi toàn quốc theo quy định và phù hợp thông lệ quốc tế.

c) Ngoài lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài quy định tại điểm a và điểm b nêu trên, tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến nuôi con nuôi nước ngoài không được đặt ra bất kỳ khoản thu nào khác.

1.9. Các hành vi bị cấm

 Luật nuôi con nuôi đã quy định 07 nhóm hành hành vi bị cấm tại Điều 13 như sau:

- Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em

Hiện tượng nhận trẻ em làm con nuôi sau đó bắt buộc trẻ em lao động đã xảy ra trên thực tế. Người có hành vi lợi dụng việc cho, nhận hoặc giới thiệu trẻ em làm con nuôi để trục lợi; lợi dụng việc nhận con nuôi nhằm bóc lột sức lao động thì bị phạt tiền từ 05 – 10 triệu đồng (Điểm c khoản 3 Điều 62 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP). Người có hành lợi dụng việc nuôi con nuôi để xâm hại tình dục trẻ em thì tùy theo mức độ vi phạm mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Người có hành lợi dụng việc nuôi con nuôi để bắt cóc, mua bán trẻ em thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 153) Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Giả mạo giấy tờ, hồ sơ để giải quyết việc nuôi con nuôi

Đã có một số trường hợp lợi dụng chức vụ hoặc quyền hạn để phát hành những loại giấy tờ, hồ sơ làm sai lệch nhân thân, nguồn gốc của trẻ em được cho làm con nuôi (như làm giả Giấy khai sinh, Giấy xác nhận khuyết tật, Giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi của người có quyền đồng ý, Giấy chứng tử cha mẹ đẻ của trẻ...). Hành vi tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để làm thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng (Điểm d khoản 1 Điều 62 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP).

- Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi

Mục đích của việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững (Điều 2), pháp luật về hôn nhân gia đình, bộ luật dân sự, pháp luật về trẻ em đều thừa nhận quyền và nghĩa vụ của con nuôi cũng như con đẻ là như nhau. Do đó, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.

- Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số

Pháp lệnh dân số quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng là quyết định sinh một hoặc hai con (Khoản 2 Điều 10), một số cặp vợ chồng đã sinh 02 con lại muốn sinh thêm con nữa, đã thống nhất thuận tình ly hôn, trong thời gian ly hôn thì người vợ mang thai và sinh con, sau đó cặp vợ chồng lại đăng ký kết hôn lại và người chồng nhận con riêng của vợ (thực chất là con đẻ của mình) làm con nuôi. Để ngăn chặn tình trạng này, Luật nuôi con nuôi nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số. Người có hành vi vi phạm quy định này sẽ bị phạt tiền từ 03 – 05 triệu đồng theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 62 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.

- Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước

Bảo vệ và hỗ trợ thương binh, người có công với cách mạng và đồng bào thuộc dân tộc ít người là những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Song trong quá trình áp dụng pháp luật, đã có những biểu hiện lạm dụng chính sách đó bằng cách cho trẻ em làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người già yếu, cô đơn hoặc làm con nuôi của người thuộc dân tộc ít người để hưởng chế độ và chính sách như: để được cộng điểm thi vào các trường đại học, hưởng chế độ ưu đãi về bảo hiểm xã hội… Đây là một hiện tượng đã phát sinh tại một số địa phương, nhiều cơ quan, ban ngành đã phản ánh, vì thế cần nghiêm cấm triệt để. Người có hành vi lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước sẽ bị phạt tiền từ 03 – 05 triệu đồng theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 62 Nghị định số 80/2020/NĐ-CP.

- Việc ông bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi

Luật nuôi con nuôi quy định cấm ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi. Trên thực tế có trường hợp ông bà nhận cháu làm con nuôi khi cha mẹ đẻ của cháu mất, hoặc anh, chị nhận em làm con nuôi khi cha mẹ không còn. Điều này đã làm đảo lộn ngôi thứ/thứ bậc trong các quan hệ gia đình (ông bà trở thành “bố mẹ”, cháu lại trở thành “con”; hoặc anh/chị lại trở thành “cha/ mẹ” và em thì trở thành con – đó là điều trái pháp luật, trái đạo lý - ảnh hưởng đến cả quan hệ thừa kế, quan hệ nội tộc, họ hàng, do đó cần phải bị nghiêm cấm). Vì vậy, trường hợp cha mẹ bị chết, thì ông bà (nội, ngoại) có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cháu hoặc anh, chị có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc em - đó là trách nhiệm nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, không cần phải xác lập quan hệ nuôi con nuôi thì mới ràng buộc được trách nhiệm của các bên.

- Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc

Quy định này là hết sức cần thiết, nhằm ngăn chặn các hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm các chính sách pháp luật của Nhà nước như chính sách về dân số, quốc tịch, chính sách về an sinh xã hội và các chính sách khác.

2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi, trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em

a) Điều kiện đối với người nhận con nuôi  (Điều 14)

Người nhận con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt.

Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không phải chứng minh hơn con nuôi 20 tuổi trở lên và không cần chứng minh điều kiện bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con nuôi.

Những người không được nhận con nuôi: Người đang bị hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang chấp hành hình phạt tù; chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

b) Trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em (Điều 15)

 Việc tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em nhằm bảo đảm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (như trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn...) có cơ hội được người trong nước nhận làm con nuôi, được nuôi dưỡng và lớn lên ngay trên đất nước mình. Từ đó, bảo đảm trẻ em có điều kiện hòa nhập tốt vào đời sống cộng đồng dân tộc, với bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo... của Việt Nam và trở thành công dân tốt cho xã hội. Đây cũng là mục tiêu chung trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, Luật nuôi con nuôi quy định biện pháp tìm người nhận nuôi trong nước như một biện pháp bắt buộc, trước khi giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài và về nguyên tắc được áp dụng đối với mọi trẻ em. Đây là một bước tiến mới trong quy định pháp luật nhằm tăng cường nuôi con nuôi trong nước. Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em được thực hiện liên thông ở 3 cấp (xã, tỉnh, trung ương). Trong thời gian thông báo tìm gia đình thay thế, nếu có người nhận trẻ em làm con nuôi trong nước thì sẽ được giải quyết. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc ưu tiên nuôi con nuôi trong nước đã được thừa nhận trong các Công ước quốc tế liên quan đến trẻ em, đặc biệt là Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.

Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em được quy định như sau:

- Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện trẻ em bị bỏ rơi có trách nhiệm tìm người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ em; nếu có người nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện trẻ em bị bỏ rơi xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật; nếu không có người nhận trẻ em làm con nuôi thì lập hồ sơ đưa trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng;

- Trường hợp trẻ em mồ côi không có người nuôi dưỡng hoặc trẻ em có cha mẹ đẻ, người thân thích nhưng không có khả năng nuôi dưỡng thì người giám hộ, cha mẹ đẻ, người thân thích có trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú tìm gia đình thay thế cho trẻ em. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em và thông báo, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân trong thời hạn 60 ngày để tìm người nhận trẻ em làm con nuôi; nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, giải quyết. Hết thời hạn thông báo, niêm yết, nếu không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập hồ sơ đưa trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng;

- Trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng cần có gia đình thay thế, cơ sở nuôi dưỡng lập danh sách gửi Sở Tư pháp. Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo 03 lần liên tiếp trên báo viết hoặc phương tiện thông tin đại chúng khác của tỉnh.

Cơ sở nuôi dưỡng cần lập 02 danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế: Danh sách 1 gồm những trẻ không phải là trẻ em khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo gửi cho Sở Tư pháp để thông báo tìm gia đình thay thế cho trẻ em trong phạm vi địa bàn tỉnh; Danh sách 2 gồm những trẻ là trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo và trẻ em từ 05 tuổi trở lên hoặc có hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột cần tìm gia đình thay thế gửi cho Sở Tư pháp để Sở Tư pháp gửi kèm theo hồ sơ cho Cục Con nuôi để thông báo cho người nhận đích danh trẻ em làm con nuôi.

Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì người đó liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu việc nhận con nuôi đã hoàn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Sở Tư pháp để xóa tên trẻ em đó trong danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế.

Hết thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Sở Tư pháp gửi danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế cho Bộ Tư pháp;

- Bộ Tư pháp có trách nhiệm thông báo tìm người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi trên trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.

Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì người đó liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu việc nhận con nuôi đã hoàn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Bộ Tư pháp để xóa tên trẻ em đó trong danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế.

Hết thời hạn 60 ngày, kể từ ngày thông báo, nếu không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì Bộ Tư pháp thông báo cho Sở Tư pháp.

d) Sự đồng ý cho làm con nuôi (Điều 21)

Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu một trong hai người là cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó.

Quy định nhận trẻ em từ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó nhằm bảo đảm trẻ em được tự do bày tỏ ý kiến của mình, quy định này tương đồng với quy định của nhiều nước trên thế giới, Công ước Lahay và Công ước quốc tế về quyền trẻ em.

Người đồng ý cho làm con nuôi phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe doạ hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày.

Công chức Tư pháp – Hộ tịch của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của trẻ em được nhận làm con nuôi trực tiếp thực hiện lấy ý kiến của những người liên quan về việc nuôi con nuôi trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Việc lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến.

Trường hợp những người liên quan do chưa nhận thức đầy đủ, chưa hiểu rõ những vấn đề được tư vấn hoặc bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe đã đồng ý cho trẻ em làm con nuôi sau đó muốn thay đổi ý kiến, thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được lấy ý kiến, những người liên quan phải thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi. Hết thời hạn này, những người liên quan không được thay đổi ý kiến về việc cho trẻ em làm con nuôi (Khoản 3 Điều 9 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP).

3. Theo dõi việc nuôi con nuôi và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi

a) Theo dõi việc nuôi con nuôi (Điều 23)

Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày giao nhận con nuôi, định kỳ sáu tháng một lần, cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng.

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cha mẹ nuôi thường trú có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi.

b) Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi (Điều 24)

Nhắc lại mục đích của việc nuôi con nuôi là nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững nêu tại Điều 2 của Luật nuôi con nuôi, do đó kể từ ngày giao nhận con nuôi và cấp Giấy chứng nhận nuôi con nuôi thì giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Nhằm bảo đảm sự hoà nhập thực sự và toàn diện của con nuôi vào gia đình cha mẹ nuôi, bảo đảm quyền nhân thân, Luật nuôi con nuôi cũng quy định con nuôi có quyền thay đổi họ, tên theo họ của cha, mẹ nuôi; đối với con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi còn được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.

Kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi, trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác.

4. Chấm dứt việc nuôi con nuôi

a) Thẩm quyền quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi (Điều 10)

Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

b) Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi (Điều 25)

Điều 25 Luật nuôi con nuôi quy định 04 căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi:

- Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;

- Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;

- Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;

- Vi phạm một trong các hành vi bị cấm tại Điều 13 Luật nuôi con nuôi.

c) Người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi (Điều 26)

Những người sau có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi:

- Cha mẹ nuôi.

- Con nuôi đã thành niên.

- Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi.

- Cơ quan lao động, thương binh, xã hội và Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi có một trong các căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi tại Điều 25 của Luật trừ trường hợp con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi.

d) Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi (Điều 27)

- Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Toà án có hiệu lực pháp luật.

- Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó.

- Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật nuôi con nuôi được khôi phục.

- Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi.

5. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

a) Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (Điều 28)

Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là thành viên của điều ước quốc tế về hợp tác  nuôi con nuôi với Việt Nam.

Điều 28 Luật nuôi con nuôi quy định các trường hợp cụ thể nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, gồm:

- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.

- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong trường hợp là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi; nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm.

- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi.

- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.

b) Điều kiện đối với người nhận con nuôi (Điều 29)

Người nhận con nuôi phải đáp ứng đủ các điều kiện nuôi con nuôi theo quy định Luật nuôi con nuôi của Việt Nam và pháp luật của nước ngoài liên quan.

Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định đối với người nhận nuôi con nuôi trong nước tại Điều 14 của Luật nuôi con nuôi và phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú nếu là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi hoặc pháp luật của nước nơi trẻ em được nhận làm con nuôi thường trú trong trường hợp công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi.

c) Hợp pháp hoá lãnh sự giấy tờ, tài liệu (Điều 30)

Giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ của người nhận con nuôi, hồ sơ của tổ chức con nuôi nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận phải được hợp pháp hoá lãnh sự khi sử dụng ở Việt Nam, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

6. Thông báo tình hình phát triển của con nuôi

Trong thời hạn 03 năm, định kỳ 06 tháng một lần, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo cho Bộ Tư pháp và Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước nơi con nuôi thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng (Điều 39).

7. Công dân Việt Nam ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi

Thực tiễn cho thấy, rất ít trường hợp công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi, và nếu có thì chủ yếu là các trường hợp nhận trẻ em đó có quan hệ họ hàng với người nhận con nuôi. Tuy nhiên, để giải quyết tình trạng người Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi cần hoàn thiện giấy tờ theo pháp luật của nước ngoài, Điều 40 Luật nuôi con nuôi quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm xem xét, cấp giấy xác nhận người nhận con nuôi có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp cần thiết, Bộ Tư pháp yêu cầu Sở Tư pháp nơi người đó thường trú xác minh thì thời hạn có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày. Sau khi hoàn tất các thủ tục nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi, công dân Việt Nam có trách nhiệm làm thủ tục ghi chú việc nuôi con nuôi tại Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó thường trú.

8. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi

Về cơ bản, điều kiện hồ sơ của người nhận con nuôi là người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, hồ sơ của trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi, cũng như hệ quả của việc nuôi con nuôi và việc chấm dứt nuôi con nuôi tương tự như quy định về nuôi con nuôi trong nước, được áp dụng theo quy định tại các Điều 14, 15, 16, 17, 18, 21, 23, 24, 25, 26 và 27 của Luật nuôi con nuôi.

Thủ tục giải quyết việc nhận con nuôi của người nước ngoài thường trú ở Việt Nam là ở cấp tỉnh (thủ tục giải quyết việc con nuôi trong nước là ở cấp xã)

Cụ thể như sau:

a) Thẩm quyền quyết định, đăng ký việc nuôi con nuôi của người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi

- Thẩm quyền quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

- Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi của người nước ngoài thường trú ở Việt Nam: Sở Tư pháp

b) Nơi nộp hồ sơ

Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi cho Sở Tư pháp nơi trẻ em được giới thiệu làm con nuôi thường trú. Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, lấy ý kiến của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ và trẻ em nếu trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên.

c) Quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận trẻ em Viêt Nam làm con nuôi và đăng ký việc nuôi con nuôi

Khi xét thấy người nhận con nuôi và trẻ em được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật nuôi con nuôi thì Sở Tư pháp trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi; trường hợp từ chối thì phải trả lời cho người nhận con nuôi bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Ngay sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch, tổ chức lễ giao nhận con nuôi tại trụ sở Sở Tư pháp với sự có mặt của đại diện Sở Tư pháp, trẻ em được nhận làm con nuôi, cha mẹ nuôi, đại diện cơ sở nuôi dưỡng đối với trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha mẹ đẻ, người giám hộ đối với người được xin nhận làm con nuôi từ gia đình và gửi quyết định cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi. Trường hợp người nhận con nuôi không đến nhận con nuôi mà không có lý do chính đáng thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hủy quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi.

Việc giao nhận con nuôi phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và đại diện Sở Tư pháp.

  

II. MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA CÔNG ƯỚC LAHAY SỐ 33 NGÀY 29/5/1993 VỀ BẢO VỆ TRẺ EM VÀ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI QUỐC TẾ (Công ước)

Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế đã được đại diện của 64 nước (trong đó có Việt Nam) thông qua tại Hội nghị Lahay về Tư pháp quốc tế, tính đến nay đã có hơn 93 quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên của Công ước.

Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN về việc phê chuẩn Công ước Lahay. Tham gia Công ước này, Việt Nam có cơ hội mở rộng quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi với các nước thành viên Công ước mà trước đây chưa ký Hiệp định song phương với Việt Nam, qua đó giúp mở rộng phạm vi tìm kiếm các gia đình có đủ điều kiện và nguyện vọng nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Đồng thời các tổ chức, cơ quan liên quan của Việt Nam cũng có thêm cơ hội trao đổi kinh nghiệm với các nước thành viên Công ước trong quản lý và giải quyết vấn đề nuôi con nuôi quốc tế.

1. Mục đích của Công ước (Điều 1)

- Thiết lập những đảm bảo để vấn đề con nuôi nước ngoài được tiến hành vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em được công nhận trong luật pháp quốc tế;

- Thiết lập một hệ thống hợp tác giữa các quốc gia ký kết để những đảm bảo trên được tôn trọng và để ngăn ngừa việc bắt cóc, buôn bán trẻ em;

-  Đảm bảo tại các quốc gia ký kết sự công nhận việc nuôi con nuôi được tiến hành theo Công ước.

2. Phạm vi áp dụng của Công ước (Điều 2)

Những quy định của Công ước chỉ áp dụng đối với việc cho, nhận con nuôi giữa các nước ký kết, giữa các nước là thành viên của Công ước.

Cụ thể “Công ước phải được áp dụng khi một trẻ em thường trú tại một quốc gia ký kết (quốc gia gốc) đã, đang hoặc sẽ được chuyển đến một quốc gia ký kết khác (quốc gia nhận) sau khi đã được một cặp vợ chồng hay một người thường trú ở quốc gia nhận, nhận làm con nuôi tại quốc gia gốc”. Do đó, Công ước không điều chỉnh các trường hợp trẻ em thường trú tại một nước ký kết mà cha mẹ nhận nuôi lại thường trú tại một nước không phải là nước ký kết và ngược lại.

Để tránh việc lợi dụng các quy định của Công ước vào việc di cư bất hợp pháp (việc xin nhận con nuôi chỉ mang tính danh nghĩa), Công ước quy định chỉ áp dụng đối với những trường hợp nuôi con nuôi tạo lập mối quan hệ cha mẹ và con lâu dài.

3. Những yêu cầu đối với việc nuôi con nuôi quốc tế

(quy định về nghĩa vụ của quốc gia gốc – nước cho trẻ em làm con nuôi và nghĩa vụ của quốc gia nhận – nước có cha, mẹ nhận trẻ em làm con nuôi)

3.1. Nghĩa vụ của quốc gia gốc (Điều 4)

Việc xin nhận con nuôi chỉ được tiến hành tại quốc gia gốc hoặc quốc gia nhận khi được cơ quan có thẩm quyền của quốc gia gốc xác nhận những điều kiện cụ thể sau:

- Xác định rằng trẻ em có thể được nhận làm con nuôi;

- Xác nhận việc làm con nuôi nước ngoài là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em sau khi đã xem xét kỹ các khả năng chăm sóc các em tại quốc gia gốc;

- Bảo đảm rằng: những cá nhân, tổ chức, cơ quan hữu quan đã hiểu về hậu quả mà sự đồng ý cho trẻ em làm con nuôi của họ có thể mang lại, đặc biệt là việc cắt đứt mối quan hệ pháp lý giữa trẻ em và gia đình gốc. Sự đồng ý này phải hoàn toàn tự nguyện và được thể hiện bằng văn bản; không có bất kỳ một sự trả tiền hay bồi thường nào để có được sự đồng ý này cũng như sự đồng ý đó không bị rút lại. Người mẹ có thể đồng ý chỉ sau khi trẻ em ra đời, nếu đòi hỏi phải có sự đồng ý này;

- Sau khi đã tính đến tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em, đảm bảo trẻ em đã được hỏi ý kiến và được thông báo đầy đủ về những hậu quả của việc làm con nuôi và việc các em đồng ý làm con nuôi, sự đồng ý này được thể hiện bằng văn bản, ở những nước đòi hỏi phải có sự đồng ý đó; đã xem xét những mong muốn và ý kiến của trẻ em; không có bất kỳ sự trả tiền hay bồi thường nào để có được sự đồng ý của trẻ em.

3.2. Nghĩa vụ của quốc gia nhận (Điều 5)

Việc nuôi con nuôi chỉ được thực hiện nếu các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia nhận:

- Xác nhận cha, mẹ nuôi tương lai có đủ tư cách và thích hợp để nuôi con nuôi;

- Cha mẹ nuôi tương lai đã được tư vấn ở mức độ cần thiết;

- Xác nhận trẻ em được hoặc sẽ được nhập cảnh và thường trú tại quốc gia đó.

4. Thủ tục cho, nhận con nuôi quốc tế

Mỗi quốc gia ký kết Công ước phải chỉ định một cơ quan Trung ương có thẩm quyền (về con nuôi) để thực hiện các nghĩa vụ mà Công ước quy định. Mỗi quốc gia ký kết phải thông báo cho Ban thư ký thường trực Hội nghị Lahay về luật tư pháp quốc tế việc chỉ định cơ quan Trung ương có thẩm quyền.

Điều 14 Công ước quy định thủ tục xin nhận con nuôi bắt đầu bằng việc người thường trú ở quốc gia ký kết này muốn nhận nuôi một trẻ em thường trú ở một quốc gia ký kết khác cần phải liên hệ với cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia nơi họ thường trú.

4.1. Trách nhiệm của cơ quan Trung ương quốc gia nhận (Điều 15)

Nếu cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia nhận cho rằng người xin con nuôi đáp ứng các điều kiện và thích hợp để nuôi con nuôi thì phải làm một báo cáo gửi cho cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia gốc. Báo cáo gồm những thông tin về nhân thân, tư cách pháp lý, khả năng nuôi con nuôi, tình trạng cá nhân, gia đình, sức khỏe và địa vị xã hội, về lý do xin nuôi con nuôi, khả năng đảm nhận việc nuôi con nuôi nước ngoài cũng như các đặc điểm của trẻ em mà họ thấy thích hợp để nhận nuôi.

4.2. Trách nhiệm của cơ quan Trung ương quốc gia gốc (Điều 16)

Cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia gốc thấy rằng trẻ em đó có thể làm con nuôi được thì:

- Xây dựng báo cáo gồm những thông tin về gốc tích của trẻ em, về việc các em có thể được cho làm con nuôi, về địa vị xã hội, lý lịch gia đình, hồ sơ sức khỏe và những nhu cầu đặc biệt của trẻ em;

- Xem xét một cách thỏa đáng những điều kiện nuôi nấng trẻ em cũng như về chủng tộc, tôn giáo và văn hóa của các em;

- Đảm bảo đã có sự đồng ý của trẻ em, của cá nhân, tổ chức liên quan về việc cho trẻ em làm con nuôi quy định tại Điều 4 Công ước;

- Dựa trên các báo cáo liên quan đến trẻ em và cha mẹ nuôi tương lai, xác nhận rằng việc cho trẻ em làm con nuôi là cách tốt nhất đáp ứng lợi ích của các em.

Cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia gốc phải chuyển báo cáo cho cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia nhận về trẻ em, văn bản đồng ý cho trẻ em làm con nuôi và những lý do xác nhận việc đồng ý giao nhận, đồng thời tránh không để lộ gốc tích của cha mẹ, nếu gốc tích của họ không thể được tiết lộ tại quốc gia gốc.

4.3. Thủ tục giao nhận con nuôi (Điều 17)

 Quyết định về việc giao trẻ em cho cha mẹ nuôi tương lai của quốc gia gốc chỉ được thông qua nếu:

- Cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia gốc bảo đảm rằng cha mẹ nuôi tương lai đã đồng ý;

- Cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia nhận đã chấp nhận quyết định này nếu pháp luật của quốc gia nhận hoặc cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia gốc đòi hỏi điều đó;

- Cơ quan Trung ương có thẩm quyền của cả hai quốc gia đã đồng ý tiến hành thủ tục nuôi con nuôi;

- Việc cha mẹ nuôi tương lai đáp ứng các điều kiện và thích hợp cho việc nuôi con nuôi cũng như việc trẻ em được hoặc sẽ được nhập cảnh và thường trú tại quốc gia nhận.

Cơ quan Trung ương có thẩm quyền của cả hai quốc gia phải áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để trẻ em được phép xuất cảnh quốc gia gốc, được nhập cảnh và thường trú tại quốc gia nhận.

4.4. Đưa trẻ em đến quốc gia nhận (Điều 19)

Việc đưa trẻ em từ quốc gia gốc đến quốc gia nhận chỉ được thực hiện khi cơ quan Trung ương có thẩm quyền của cả hai quốc gia gốc xác nhận không có một sự cản trở nào đối với việc cho, nhận con nuôi theo luật của mỗi nước và trong các điều kiện thích hợp có sự đi cùng của cha mẹ nuôi hay cha mẹ nuôi tương lai nếu có thể.

Nếu việc đưa trẻ em đi làm con nuôi không được thực hiện thì các báo cáo của cơ quan Trung ương của quốc gia nhận về người xin con nuôi và cơ quan Trung ương của quốc gia gốc về trẻ em cho làm con nuôi phải được gửi trả cho các cơ quan đã gửi báo cáo đó.

4.5. Chế độ thông báo giữa các cơ quan Trung ương (Điều 20)

Các cơ quan Trung ương có thẩm quyền phải thông báo cho nhau về quá trình cho nhận con nuôi và các biện pháp áp dụng để hoàn thành quá trình đó, cũng như về sự tiến triển của việc thu xếp việc cho nhận con nuôi nếu một giai đoạn thử thách là cần phải có.

Giai đoạn thử thách được hiểu là giai đoạn sau khi trẻ em được giới thiệu và trước khi việc xin con nuôi hoàn tất, khi mà các dịch vụ được cung cấp để bảo đảm sự thích nghi và hòa nhập của trẻ em với cha mẹ nuôi tương lai, cũng như sự sẵn sàng về tình cảm để hòa hợp với cha mẹ nuôi.

4.6. Các biện pháp bảo vệ trẻ em tại quốc gia nhận (Điều 21)

Mặc dù Công ước đã quy định những bảo đảm, những nguyên tắc đối với việc nuôi con nuôi, tuy nhiên Công ước cũng dự liệu trường hợp trẻ em làm con nuôi ở quốc gia nhận không đạt được mục đích vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Bởi vậy, Điều 21 Công ước quy định những biện pháp cần được thực hiện để bảo vệ trẻ em sau khi được chuyển đến quốc gia nhận.

Cụ thể, nếu cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia nhận cho rằng việc để cho cha mẹ nuôi tiếp tục chăm sóc các em không vì lợi ích tốt nhất của các em thì cơ quan Trung ương có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ các em, đặc biệt là:

- Đưa các em ra khỏi gia đình cha mẹ nuôi và thu xếp việc chăm sóc tạm thời cho các em;

- Tham khảo ý kiến cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia gốc nhằm thu xếp không trì hoãn việc cho các em được một gia đình khác chăm sóc với mục đích làm con nuôi hoặc nếu không thích hợp thì thu xếp một sự chăm sóc thay thế lâu dài khác cho các em. Việc làm con nuôi mới chỉ được tiến hành khi cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia gốc được thông báo một cách hợp thức về cha mẹ nuôi tương lai của các em;

- Thu xếp việc hồi hương cho các em như là cách cuối cùng nếu lợi ích của các em đòi hỏi như vậy.

Khi triển khai các biện pháp này cần tính đến tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em, cần tham khảo ý kiến của các em và trong trường hợp cần thiết phải có sự đồng ý của các em.

5. Công nhận và hậu quả của việc nuôi con nuôi

5.1. Công nhận việc nuôi con nuôi (Điều 23)

Nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc công nhận tại tất cả các quốc gia ký kết Công ước, Điều 23 Công ước quy định quyết định nuôi con nuôi có giá trị pháp lý ở tất cả các quốc gia ký kết Công ước, rằng việc xin nhận con nuôi đã được tiến hành ở quốc gia gốc thì không cần phải tiến hành lại ở quốc gia nhận, đồng thời ngăn chặn tình trạng sửa đổi các nội dung của quyết định về việc nuôi con nuôi.

Điều 23 quy định, việc nhận nuôi con nuôi được cơ quan có thẩm quyền của quốc gia ký kết nơi thực hiện chứng nhận phù hợp với Công ước, được công nhận có giá trị pháp lý ở các quốc gia ký kết khác.

Vào thời điểm ký, phê chuẩn, chấp thuận hoặc gia nhập Công ước, mỗi quốc gia ký kết phải thông báo cho quốc gia lưu chiểu Công ước tên và chức năng của một hoặc những cơ quan của quốc gia đó có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận. Quốc gia đó cũng phải thông báo về bất kỳ sự thay đổi nào trong việc chỉ định những cơ quan đó.

5.2. Từ chối công nhận việc nuôi con nuôi (Điều 24)

Một quốc gia ký kết chỉ có thể từ chối công nhận việc nuôi con nuôi nếu việc nuôi con nuôi đó thể hiện sự trái ngược với chính sách công ở quốc gia đó và có xem xét đến lợi ích tốt nhất của trẻ em.

5.3. Quyền tuyên bố về việc không bị Công ước ràng buộc phải công nhận việc nuôi con nuôi (Điều 25)

Bất kỳ quốc gia ký kết nào cũng có thể tuyên bố với quốc gia lưu chiểu Công ước là quốc gia đó không bị Công ước ràng buộc phải công nhận việc nuôi con nuôi được tiến hành theo thỏa thuận được ký kết khi áp dụng những thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa các quốc gia ký kết Công ước này nhằm tạo thuận lợi cho việc áp dụng Công ước trong quan hệ giữa những quốc gia quốc gia đó với nhau (xem thêm Khoản 2 Điều 39 Công ước).

5.4. Công nhận hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi (Điều 26)

Việc công nhận nuôi con nuôi bao gồm việc công nhận:

- Mối quan hệ pháp lý cha, mẹ - con giữa cha mẹ nuôi và trẻ em;

- Trách nhiệm cha, mẹ của cha, mẹ nuôi đối với trẻ em;

Việc chấm dứt mối quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ nếu việc nuôi con nuôi này có hậu quả như vậy tại quốc gia ký kết nơi thực hiện việc nuôi con nuôi đó.

Nếu việc nuôi con nuôi dẫn đến việc chấm dứt mối quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ thì các em phải được hưởng tại quốc gia nhận và tại bất kỳ các quốc gia ký kết nào khác mà công nhận việc nuôi con nuôi đó những quyền tương tự như những quyền phát sinh do việc nuôi con nuôi có hậu quả như vậy.

Những quy định trên không làm ảnh hưởng đến việc áp dụng bất kỳ một điều khoản nào có lợi hơn đối với trẻ em đang có hiệu lực tại quốc gia ký kết mà công nhận việc nuôi con nuôi đó. 

5.5. Chuyển đổi hình thức nuôi con nuôi (Điều 27)

Điều 27 Công ước quy định trường hợp quyết định nuôi con nuôi ở quốc gia gốc được chuyển cho quốc gia nhận khi quyết định nuôi con nuôi của quốc gia gốc không làm chấm dứt mối quan hệ pháp lý trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ.

Cụ thể: ở những nơi việc nuôi con nuôi được quốc gia gốc cấp phép không có hậu quả chấm dứt mối quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ có thể chuyển thành việc nuôi con nuôi có hậu quả như vậy tại quốc gia nhận, công nhận việc nuôi con nuôi đó phù hợp với Công ước, nếu:

- Luật của quốc gia nhận cho phép như vậy;

- Những sự đồng ý nói tại các mục c, d Điều 4 Công ước đã được đưa ra vì mục đích muôi con như vậy.

Như vậy, quốc gia nhận sẽ áp dụng pháp luật của mình để quyết định có khả năng chuyển đổi hay không.

6. Những quy định chung

6.1. Tôn trọng pháp luật trong nước (Điều 28)

Công ước không làm ảnh hưởng đến luật pháp nào của quốc gia gốc mà quy định việc nuôi trẻ thường trú tại quốc gia đó làm con nuôi được thực hiện tại quốc gia đó hoặc cấm việc thu xếp đưa các em đến quốc gia nhận hoặc chuyển các em đến quốc gia đó trước khi các em đó được nhận làm con nuôi.

6.2. Cấm tiếp xúc với cha mẹ đẻ, người nuôi dưỡng trẻ em trước khi tiến hành các thủ tục xin nhận con nuôi (Điều 29)

Nhằm ngăn chặn việc buôn bán trẻ em và những hoạt động khác trái với mục đích của Công ước, đặc biệt để tránh việc những người này đưa ra sự đồng ý cho trẻ em làm con nuôi bằng cách được trả tiền hoặc bồi thường một khoản tiền nào đó, Điều 29 Công ước quy định: “Sẽ không có bất kỳ sự tiếp xúc nào giữa cha mẹ nuôi tương lai với cha mẹ đẻ của trẻ hoặc với bất kỳ một người nào khác đã chăm sóc trẻ em trước khi những quy định tại Điểm a, b,c Điều 4 và Điểm a Điều 5 Công ước được đáp ứng, trừ khi việc nuôi con nuôi đó được thực hiện giữa thành viên trong một gia đình hoặc trừ khi có mối liên hệ theo những điều kiện do cơ quan có thẩm quyền của quốc gia gốc quy định”.

Như vậy, việc tiếp xúc giữa cha mẹ nuôi tương lai với cha mẹ đẻ của trẻ hoặc người nuôi dưỡng chăm sóc trẻ chỉ bị hạn chế trong một khoảng thời gian nhất định (trước khi tiến hành các thủ tục con nhận con nuôi).

6.3. Bảo mật các thông tin về trẻ em và cha mẹ đẻ (Điều 30, Điều 31)

Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia ký kết Công ước phải bảo đảm giữ kín những thông tin do họ lưu giữ về nguồn gốc của trẻ em, đặc biệt là những thông tin liên quan đến gốc tích của cha mẹ cũng như những dữ liệu về lịch sử bệnh án của các em (Khoản 1 Điều 31). Quy định này nhằm tránh gây ra những tổn thương cho trẻ em và cha mẹ trẻ, ví dụ như một người mẹ không kết hôn đã đồng ý cho con của mình làm con nuôi và người này sẽ bị tổn thương nặng nếu bị phơi bầy quá khứ của mình và trẻ em đó cũng bị ảnh hưởng tâm lý nặng nề.

Tuy nhiên để bảo đảm quyền được thông tin về nguồn gốc của mình (quyền này đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em – Điều 7: quyền được biết cha mẹ mình), do vậy, Khoản 2 Điều 31 đã quy định cơ quan có thẩm quyền của quốc gia ký kết phải đảm bảo để trẻ em hoặc người đại diện của trẻ em được tiếp cận những thông tin này theo sự hướng dẫn thích hợp trong phạm vi được pháp luật của quốc gia đó cho phép.

Công ước quy định việc tiếp cận thông tin phải được thực hiện “theo sự hướng dẫn thích hợp” nhằm ngăn chặn  ở chừng mực có thể những tổn hại đối với trẻ em như về tình cảm hoặc những lý do khác. Đồng thời thông tin chỉ được đưa ra sau khi đã áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp và có tính đến độ tuổi của trẻ em cũng như những điều kiện cá nhân khác của trẻ.

Để ngăn ngừa việc lạm dụng quyền được tìm hiểu nguồn gốc của trẻ em và người đại diện của trẻ em vượt quá giới hạn cho phép, Điều 31 Công ước quy định: Những thông tin cá nhân được thu thập hay chuyển giao theo quy định của Công ước, đặc biệt là các thông tin quy định tại Điều 15 (dữ liệu về nhân thân cha mẹ nuôi) và Điều 16 (dữ liệu về nhân thân trẻ em được cho làm con nuôi) chỉ được sử dụng vào mục đích mà vì những mục đích đó đã được thu thập hoặc chuyển giao.

6.4. Nguyên tắc không hưởng lợi từ việc nuôi con nuôi (Điều 32)

Mục đích cho nhận con nuôi hoàn toàn là nhân đạo, bảo đảm những lợi ích tốt nhất cho trẻ em, do đó: Không ai được thu tiền hay thu lợi bất chính từ một hoạt động liên quan đến vấn đề con nuôi nước ngoài.

Quy định này hoàn toàn phù hợp với một trong những nguyên tắc cho, nhận con nuôi được quy định tại Điểm d Điều 21 Công ước quốc tế về quyền trẻ em là “Các quốc gia thành viên phải thi hành mọi biện pháp thích hợp để đảm bảo rằng trong trường hợp trẻ được người nước khác nhận làm con nuôi, việc bố trí ấy không dẫn đến sự trục lợi bất hợp pháp về tài chính của những người có liên quan”.

Như vậy, Điều 32 chỉ cấm “thu lợi bất chính” những khoản tài chính hoặc khoản có tính chất tài chính khác, do đó những khoản “thu hợp pháp” đều được phép là những phí tổn và chi phí bao gồm cả lệ phí chuyên môn vừa phải dành cho những người có liên quan vào việc nuôi con nuôi (như chi phí cho luật sư). Tuy nhiên, những người lãnh đạo, người quản lý và nhân viên của những tổ chức có liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi không được nhận thù lao cao hơn một cách bất hợp lý với công việc mà họ đã làm.

6.5. Những quy định đối với quốc gia thành viên (Điều 33 đến Điều 42)

a) Bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào nhận thấy một trong những điều khoản của Công ước không được tôn trọng hoặc có nguy cơ không được tôn trọng đều phải thông báo ngay cho cơ quan Trung ương có thẩm quyền của quốc gia mình. Cơ quan Trung ương có thẩm quyền này phải có trách nhiệm đảm bảo tiến hành các biện pháp phù hợp (Điều 33).

b) Các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia thành viên phải hành động nhanh chóng trong quá trình giải quyết thủ tục nuôi con nuôi (Điều 35).

c) Đối với quốc gia có nhiều hệ thống pháp luật được áp dụng tại những vùng lãnh thổ khác nhau, thì những thuật ngữ trong Công ước được hiểu như sau:

- Nơi thường trú tại quốc gia có nghĩa là nơi thường trú tại đơn vị lãnh thổ của quốc gia đó;

- Pháp luật của quốc gia có nghĩa là luật pháp đang có hiệu lực tại một số đơn vị lãnh thổ có liên quan;

- Cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan công quyền của quốc gia có nghĩa là cơ quan được phép hoạt động tại đơn vị lãnh thổ có liên quan;

- Những tổ chức được ủy nhiệm của quốc gia có nghĩa là những tổ chức được ủy nhiệm tại đơn vị lãnh thổ có liên quan (Điều 36).

Lưu ý, quy định tại Điều 36 Công ước không chỉ áp dụng cho các quốc gia có cấu trúc liên bang (như Mỹ, Canada, Úc, Thụy Sỹ) mà còn áp dụng cho các quốc gia có cấu trúc nhất thể (như Anh, Tây Ban Nha).

d) Đối với quốc gia có nhiều hệ thống pháp luật được áp dụng đối với những diện người khác nhau thì khi nói đến luật pháp của quốc gia có nghĩa là hệ thống pháp luật được quy định theo luật pháp của quốc gia đó (Điều 37).

Quy định tại Điều 37 nhằm giải quyết tình trạng trong cùng một đất nước nhưng địa vị của các công dân không như nhau vì cùng tồn tại các cộng đồng khác nhau (như Cộng đồng Đạo Hồi và Đạo Cơ Đốc ở Li Băng).

đ) Một quốc gia có những đơn vị lãnh thổ khác nhau và những đơn vị lãnh thổ này có những quy định pháp luật riêng trong lĩnh vực nuôi con nuôi sẽ không bị bắt buộc phải áp dụng Công ước khi một quốc gia có hệ thống pháp luật thống nhất cũng không bị bắt buộc phải làm như vậy (Điều 39). Quy định này để áp dụng đối với trường hợp nuôi con nuôi mà trẻ em được chuyển từ bang này tới bang khác trong cùng quốc gia liên bang.

g) Công ước sẽ không làm ảnh hưởng đến bất kỳ điều ước quốc tế nào khác mà các quốc gia ký kết là thành viên và điều ước đó có những quy định về các vấn đề được Công ước điều chỉnh trừ khi những quốc gia thành viên đó tuyên bố ngược lại (Khoản 1 Điều 39).

h) Bất kỳ quốc gia ký kết nào cũng có thể ký kết với một hoặc nhiều quốc gia ký kết khác những thỏa thuận nhằm tạo thuận lợi cho việc áp dụng Công ước trong quan hệ giữa những quốc gia đó với nhau. Những thỏa thuận này chỉ có thể thay đổi những quy định từ Điều 14 đến Điều 16 và từ Điều 18 đến Điều 21 Công ước, những quốc gia đã ký với nhau những thỏa thuận như vậy phải chuyển cho quốc gia lưu chiểu Công ước bản sao những thỏa thuận đó (Khoản 2 Điều 39).

Quy định này được đặt trong mối quan hệ với Điều 25 Công ước về quyền tuyên bố về việc không bị Công ước ràng buộc phải công nhận việc nuôi con nuôi.

6.6. Việc ký, gia nhập Công ước

- Công ước được mở cho các quốc gia thành viên Hội nghị Lahay về luật tư pháp quốc tế ký vào khóa họp 17 và các quốc gia khác tham dự khóa họp đó. Công ước phải được phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt và văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt phải được nộp lưu chiểu cho Bộ Ngoại giao Vương quốc Hà Lan là quốc gia lưu chiểu Công ước (Điều 43).

- Bất kỳ quốc gia nào khác đều có thể gia nhập Công ước sau khi Công ước có hiệu lực. Văn kiện gia nhập phải được nộp cho quốc gia lưu chiểu. Việc gia nhập chỉ có hiệu lực trong quan hệ giữa quốc gia gia nhập và các quốc gia ký kết khác không có ý kiến phản đổi việc gia nhập của quốc gia đó trong thời gian 06 tháng kết từ khi nhận được thông báo. Các quốc gia cũng có thể đưa ra thông báo phản đối như vậy vào thời điển các quốc gia đó phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt Công ước sau khi đã có việc gia nhập. Tuyên bố phản đối phải được thông báo cho quốc gia lưu chiểu (Điều 44).

- Điều 45 Công ước quy định quốc gia thành viên có quyền tuyên bố hiệu lực của Công ước đối với từng vùng lãnh thổ của quốc gia: nếu một quốc gia có hai hay nhiều đơn vị lãnh thổ và những đơn vị lãnh thổ này có những hệ thống pháp luật khác nhau áp dụng trong những lĩnh vực được Công ước điều chỉnh có thể tuyên bố áp dụng Công ước tại tất cả những đơn vị lãnh thổ của quốc gia đó hoặc chỉ áp dụng tại một đơn vị lãnh thổ tại thời điểm ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập và có thể thay đổi tuyên bố này vào bất cứ lúc nào bằng cách đưa ra một tuyên bố mới. Những tuyên bố này phải được nộp cho quốc gia lưu chiểu và ghi rõ những đơn vị lãnh thổ mà Công ước được áp dụng. Nếu một quốc gia không có tuyên bố theo quy định này thì Công ước sẽ được áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia đó (xem thêm Điều 36 Công ước).

- Thời điểm có hiệu lực của Công ước (Điều 46): Công ước phải bắt đầu có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng tiếp theo sau thời hạn 03 tháng kể từ khi nộp văn kiện lưu chiểu, chấp thuận hoặc phê duyệt. Sau đó, Công ước sẽ có hiệu lực:

+ Với mỗi quốc gia phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt sau hoặc gia nhập vào ngày đầu tiên của tháng tiếp theo sau thời hạn 03 tháng kể từ khi nộp văn kiện lưu chiểu, chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập.

+ Đối với những đơn vị lãnh thổ mà Công ước áp dụng theo Điều 45 vào ngày đầu tiên của tháng tiếp theo sau thời hạn 03 tháng, kể từ khi thông báo.

- Việc rút khỏi Công ước (Điều 47): bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước cũng có thể rút khỏi Công ước bằng một thông báo bằng văn bản gửi cho quốc gia lưu chiểu. Việc rút khỏi Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng tiếp theo sau thời hạn 12 tháng kể từ khi quốc gia lưu chiểu nhận được thông báo đó. Nếu trong thông báo nói thời hạn để sau đó việc rút khỏi Công ước có hiệu lực dài hơn 12 tháng thì việc rút khỏi sẽ có hiệu lực sau khi chấm dứt thời hạn đó kể từ khi quốc gia lưu chiểu nhận được thông báo./.

 

 

Tập tin đính kèm:
Các tin khác
Xem tin theo ngày