Tìm kiếm tin tức

 

NGHIỆP VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG THỰC HIỆN CHUẨN TIÊP CẬN PHÁP LUẬT
Ngày cập nhật 11/09/2020

NGHIỆP VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

TRONG THỰC HIỆN CHUẨN TIÊP CẬN PHÁP LUẬT

 

Tiêu chí xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có 5 tiêu chí. Trong đó tiêu chí 3 về phổ biến, giáo dục pháp luật với 9 chỉ tiêu cụ thể.

I. Chỉ tiêu 1 (Công khai văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có giá trị áp dụng chung có liên quan trực tiếp đến tổ chức, cá nhân trên địa bàn (trừ văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước) thuộc trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã) và chỉ tiêu 2 (Cung cấp đầy đủ thông tin pháp luật thuộc trách nhiệm phải cung cấp của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định): Thực hiện theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin (hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018.).

1. Công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước, trừ thông tin không được tiếp cận hoặc thông tin được tiếp cận có điều kiện.

- Thông tin công dân không được tiếp cận: Thông tin thuộc bí mật nhà nước; khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận. Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ.

- Thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện: Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận trong trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý. Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý; thông tin liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

2. Công dân được tiếp cận thông tin bằng các cách thức sau: 1. Tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai; 2. Yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.

3. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra, trừ trường hợp thông tin không được cung cấp và thông tin cung cấp khi có đủ điều kiện theo quy định.

Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm cung cấp cho công dân cư trú trên địa bàn thông tin do mình và do các cơ quan ở cấp mình tạo ra, thông tin do mình nhận được để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cung cấp cho công dân khác thông tin này trong trường hợp liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

4. Các thông tin sau đây phải được công khai rộng rãi: Văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính có giá trị áp dụng chung; điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là một bên; thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc của cơ quan nhà nước; Thông tin phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách đối với những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước; Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nội dung và kết quả trưng cầu ý dân, tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước mà đưa ra lấy ý kiến Nhân dân theo quy định của pháp luật; đề án và dự thảo đề án thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính;…

Các hình thức công khai thông tin bao gồm: Đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Công khai trên phương tiện thông tin đại chúng; Đăng Công báo; Niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước và các địa điểm khác; Thông qua việc tiếp công dân, họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật; Các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin xác định.

Trường hợp pháp luật có quy định về hình thức công khai đối với thông tin cụ thể thì áp dụng quy định đó. Trường hợp pháp luật không quy định cụ thể hình thức công khai thông tin thì căn cứ vào điều kiện thực tế, cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin có thể lựa chọn một hoặc một số hình thức công khai thông tin quy định tại khoản 1 Điều này bảo đảm để công dân tiếp cận được thông tin.

Đối với đối tượng là người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, ngoài các hình thức quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan nhà nước xác định hình thức công khai thông tin phù hợp với khả năng, điều kiện tiếp cận thông tin của công dân.

Thời điểm công khai thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan; trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày tạo ra thông tin, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải công khai thông tin.

5. Thông tin được cung cấp theo yêu cầu: Những thông tin phải được công khai theo quy định nhưng thuộc trường hợp sau đây: Thông tin trong thời hạn công khai nhưng chưa được công khai; Thông tin hết thời hạn công khai theo quy định của pháp luật; Thông tin đang được công khai nhưng vì lý do bất khả kháng người yêu cầu không thể tiếp cận được…

Người yêu cầu có thể yêu cầu cung cấp thông tin bằng các hình thức sau đây: Trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác đến trụ sở của cơ quan nhà nước yêu cầu cung cấp thông tin. Gửi Phiếu yêu cầu qua mạng điện tử, dịch vụ bưu chính, fax đến cơ quan cung cấp thông tin.

II. Chỉ tiêu 3: Tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định và chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan, tổ chức cấp trên

Thực hiện theo hướng dẫn, yêu cầu của cấp trên. Thời gian qua, hoạt động lớn đó là lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp năm 2013. Triển khai rất bài bản, đồng bộ; các địa phương phô tô tài liệu rất dày phát về từng hộ gia đình để nghiên cứu, sau đó có thể góp ý trực tiếp hoặc tại các cuộc họp thôn, tổ dân phố…

III. Chỉ tiêu 4: Tổ chức quán triệt, phổ biến các văn bản, chính sách pháp luật mới ban hành cho cán bộ, công chức cấp xã

Làm thế nào để tổ chức quán triệt, phổ biến đầy đủ các văn bản, chính sách PL mới ban hành cho cán bộ, công chức cấp xã.

- Mỗi ngày, có nhiều văn bản pháp luật mới ban hành (luật, nghị định, thông tư,…). Vậy làm thế nào để quán triệt, phổ biến đầy đủ?

- Hình thức: Trực tiếp hoặc gián tiếp. Trực tiếp thì tổ chức hội nghị giới thiệu, quán triệt, triển khai. Gián tiếp thông qua các cuộc họp giao ban hoặc triển khai nhiệm vụ, các đợt học tập chính trị,…

Điều 11 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật quy định các hình thức PBGDPL hiện đang được áp dụng nhiều, có hiệu quả trên thực tế là:

(1) Họp báo, thông cáo báo chí;          

(2) Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật;

(3) Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư;

(4) Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật;

(5) Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở;

(6) Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở;

(7) Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân;

(8) Các hình thức PBGDPL khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công tác PBGDPL mang lại hiệu quả.

IV. Chỉ tiêu 5 (Triển khai các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho Nhân dân trên địa bàn cấp xã bằng hình thức phù hợp) và chỉ tiêu 6 (Triển khai các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng đặc thù trên địa bàn thuộc trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật)

1. Đầu tiên, phải ban hành Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hằng năm. Đối với đối tượng đặc thù, ban hành Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật hằng năm cho đối tượng đặc thù hoặc lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật đặc thù trong Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hằng năm.

Một trong những vấn đề gây nhiều ý kiến trong thời gian qua, đó là tình trạng có nhiều báo cáo, kế hoạch trong công tác tư pháp. Ví dụ trong lĩnh vực PBGDPL, báo cáo công tác PBGDPL, báo cáo các Đè án, báo cáo chuyên đề khác… Tương tự, kế hoạch cũng như vậy. Để giảm tải bớt các công việc ở cơ sở, cơ quan cấp trên đã có chỉ đạo, hướng dẫn lồng ghép thực hiện các nhiệm vụ trong một văn bản. Ví dụ như: Báo cáo các đề án, BC hương ước, quy ước trong BC PBGDPL. Vậy thì ở đây, chúng ta có thể lồng ghép xây dựng KH PBGDPL cho các đối tượng đặc thù thành một nội dung trong KH PBGDPL năm.

Một số lưu ý trong xây dựng KH PBGDPL

a) Một số lỗi trong lập kế hoạch PBGDPL

- Mục đích còn chung chung, chưa rõ mục đích. Lỗi này thường xuất hiện ở các kế hoạch hoạt động cụ thể.

- Chưa xác định cụ thể các thông tin cần thiết để thực hiện, như: Nội dung công việc, thời gian, bộ phận thực hiện,... Các kế hoạch thường chỉ nêu nội dung pháp luật tuyên truyền, hình thức tuyên truyền. Lỗi này có nguyên nhân từ lỗi đầu tiên. Mục đích chung chung dẫn đến các nội dung cụ thể cũng chung chung. Như vậy, không có các hoạt động cụ thể, rõ ràng.

b) Nội dung cơ bản của một kế hoạch PBGDPL bao gồm;

- Căn cứ ban hành KH

- Mục đích, yêu cầu

- Nhiệm vụ và giải pháp: Nêu rõ các hoạt động cụ thể

- Tiến độ thực hiện

- Các biện pháp thực hiện

- Nguồn kinh phí thực hiện

Kế hoạch phải giải quyết được các vấn đề đặt ra:

- Thực hiện hoạt động gì?

- Tại sao thực hiện hoạt động này?

- Thực hiện bằng cách nào? Nguồn lực nào để thực hiện?

- Thực hiện vào lúc nào?

- Ai thực hiện?

Ví dụ: KH PBGDPL hàng năm ở cơ sở: 1) Mục đích, yêu cầu; 2) Nhiệm vụ và giải pháp: Triển khai, hướng dẫn thực hiện công tác PBGDPL về cơ sở; Rà soát, kiện toàn mạng lưới Tuyên truyền viên pháp luật; tổ chức hội nghị quán triệt, phổ biến một số Luật mới; phổ biến qua loa truyền thanh cơ sở; tủ sách pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của các CLBPL,… 3) Kinh phí; 4) Tổ chức thực hiện

Các loại kế hoạch

Căn cứ vào thời gian thực hiện, có các loại kế hoạch:

- Kế hoạch dài hạn (trên 5 năm)

- Kế hoạch trung hạn (3-5 năm)

- Kế hoạch ngắn hạn (1-3 năm)

- Kế hoạch chuyên đề/hành động: Kế hoạch để triển khai thực hiện một công việc, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cụ thể (tổ chức hội nghị, biên soạn tài liệu,…).

Lưu ý về việc triển khai thực hiện các Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật: Đối với kế hoạch thực hiện Đề án giai đoạn thì phải xây dựng kế hoạch cụ thể. Đối với kế hoạch thực hiện Đề án từng năm, nếu địa phương, cơ quan có đủ điều kiện để triển khai các hoạt động riêng của Đề án (kinh phí, con người,... đặc biệt là vấn đề về kinh phí) thì có thể xây dựng kế hoạch thực hiện đề án năm. Trường hợp điều kiện để triển khai Đề án không có và biện pháp thực hiện chủ yếu là lồng ghép vào các hoạt động liên quan khác thì có thể xây dựng thành một mục trong kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật chung của địa phương, cơ quan.

2.  Thứ hai, thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng trong Kế hoạch bảo đảm hiệu quả, thiết thực

Điều 11 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật quy định 08 nhóm hình thức PBGDPL hiện đang được áp dụng nhiều, có hiệu quả trên thực tế là: (Anh Mỹ đã trình bày)

 Lưu ý khi áp dụng các hình thức PBGDPL: Các hình thức PBGDPL rất đa dạng, phong phú. Vì vậy, việc lựa chọn hình thức để áp dụng vào từng trường hợp, hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ là cần thiết.

Khi lựa chọn hình thức PBGDPL cần lưu ý một số vấn đề, như:

- Phù hợp với đối tượng được tuyên truyền.

Đối với đội ngũ cán bộ, công chức có thể phổ biến pháp luật trực tiếp qua các hội nghị (giao ban, đợt học tập chính trị, hội nghị chuyên đề,…).

Đối với người dân, có thể bằng hình thức pano, áp phích, tư vấn, hướng dẫn áp dụng pháp luật, cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật,…

- Bảo đảm được yêu cầu về nguồn lực (bao gồm nhân lực, vật lực, kinh phí).

V. Chỉ tiêu 7: Các thiết chế thông tin, văn hóa, pháp luật tại cơ sở hoạt động có hiệu quả, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, phổ biến pháp luật của Nhân dân trên địa bàn cấp xã

1. Xây dựng, thực hiện chuyên mục thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật qua mạng lưới phát thanh, truyền thanh của Đài Truyền thanh cấp xã, loa truyền thanh cơ sở theo định kỳ.

Ơ cơ sở, việc phát thanh của Truyền thanh cấp xã lúc nào cũng đúng có, hàng ngày, sáng trưa chiều. Vấn đề là chúng ta có chuyên mục riêng để mục thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật không? Định kỳ có thể là hàng tuần, hàng tháng, hàng quý. Tất nhiên thực hiện với tần suất dày thì kết quả chấm điểm sẽ cao hơn. Nhiều đơn vị cho rằng, không có tin bài về pháp luật để phát (do nguồn lực, không có thời gian biên soạn, ko có tài liệu…). Có một số đơn vị áp dụng cách thức này khá hiệu quả, đó là sử dụng nguồn tài liệu tuyên truyền, PBPL do Sở Tư pháp và các cơ quan cấp phát. Chúng ta có thể lựa chọn một bài viết hoặc một nội dung trong các tài liệu này để trích giới thiệu trong chuyên mục cho bà con. Như vậy, nguồn tài liệu này có thể sử dụng trong thời gian rất dài.

Trong triển khai thực hiện, đó là sự phối hợp giữa Công chức Tư pháp – hộ tịch với Công chức văn hóa thông tin.

2. Xây dựng, quản lý, khai thác có hiệu quả Tủ sách pháp luật cấp xã:

Thực trạng Tủ sách pháp luật truyền thống trong thời gian qua: Trong những năm gần đây, hiệu quả khai thác Tủ sách pháp luật có phần hạn chế. Ở cấp tỉnh, cán bộ, công chức, viên chức ít khi mượn đọc; ở cấp xã, việc người dân đến Tủ sách pháp luật để mượn đọc hầu như không có. Nguyên nhân được xác định chủ yếu do cán bộ khai thác tài liệu từ mạng Internet nên ít quan tâm đến tài liệu giấy; sự đầu tư tài liệu cho Tủ sách pháp luật của các cơ quan, địa phương còn hạn chế, thiếu tài liệu nghiên cứu pháp luật chuyên sâu; ở cơ sở, vị trí đặt Tủ sách chủ yếu là tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã – nơi mà người dân rất ngại đến… Mặc dù còn những hạn chế trong khai thác, tuy nhiên, nhiều người vẫn cho rằng, Tủ sách pháp luật cần được duy trì, phát triển và vấn đề là phải có giải pháp khai thác hiệu quả. Vì rằng, bên cạnh việc khai thác tài liệu từ mạng Internet, thì nhiều người vẫn rất cần đến tài liệu giấy để nghiên cứu chuyên sâu hoặc phục vụ công việc một cách lâu dài.

Từ thực tế trên, ngày 13/3/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 14/2019/QĐ-TTg về việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật . Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 5 năm 2019 và thay thế Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật.

Một số điểm mới của Quyết định số 14/2019/QĐ-TTg cần lưu ý như sau:

a) Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia

- Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia là Tủ sách pháp luật có sách, tài liệu pháp luật được lưu giữ, quản lý dưới dạng số và được khai thác thông qua truy cập máy tính, các thiết bị điện tử và mạng viễn thông để phục vụ cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc.

- Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia do Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng và quản lý thống nhất, được vận hành, khai thác, sử dụng chung trong phạm vi toàn quốc theo hướng tích hợp với cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, bảo đảm thuận tiện, đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật của cá nhân, tổ chức.

- Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia có các dữ liệu thành phần về sách, tài liệu pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương (bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước), Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cập nhật, quản lý trên cơ sở tài khoản và phân quyền quản lý được giao.

- Sách, tài liệu pháp luật cập nhật trên dữ liệu thành phần của Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia được tra cứu, khai thác miễn phí.

b) Tủ sách pháp luật tại xã đặc biệt khó khăn (Quảng An là xã bãi ngang)

Tủ sách pháp luật tại xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, xã thuộc các huyện nghèo (Tủ sách pháp luật tại xã đặc biệt khó khăn) là Tủ sách pháp luật có các bộ phận sách, tài liệu pháp luật được lưu giữ, quản lý dưới dạng giấy và các vật mang tin khác để phục vụ cán bộ, công chức xã, những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức tự quản tại cơ sở và Nhân dân trên địa bàn.

c) Định mức kinh phí tối thiểu hằng năm cho mỗi Tủ sách pháp luật

Định mức kinh phí tối thiểu hằng năm cho mỗi Tủ sách pháp luật tại xã đặc biệt khó khăn, cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân là 03 triệu đồng.

d) Khai thác Tủ sách pháp luật

- Nội quy hoạt động của Tủ sách pháp luật quy định về thời gian, hình thức phục vụ; quyền hạn, trách nhiệm của người phụ trách Tủ sách pháp luật; điều kiện và thủ tục mượn sách; trách nhiệm bảo quản, bồi thường thiệt hại của người đọc, người mượn khi làm mất, làm hỏng sách, báo, tài liệu pháp luật và nội dung phù hợp khác.

- Nội quy hoạt động của Tủ sách pháp luật phải được niêm yết tại địa điểm đặt Tủ sách pháp luật.

- Thời gian phục vụ: Tủ sách pháp luật mở cửa phục vụ hàng ngày theo thời gian làm việc của Ủy ban nhân dân xã, cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân. Trong trường hợp phục vụ ngoài thời gian làm việc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đặc biệt khó khăn, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân quy định rõ ngày, giờ phục vụ người đọc.

- Hình thức phục vụ: Tủ sách pháp luật phục vụ bằng hình thức đọc tại chỗ hoặc cho mượn.

đ) Việc duy trì Tủ sách pháp luật đã được xây dựng theo Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg

Kể từ ngày Quyết định 14/2019/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc duy trì Tủ sách pháp luật tại xã, phường, thị trấn, Tủ sách pháp luật ở cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, nhà trường và cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội đã được xây dựng theo Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ (trừ Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia; Tủ sách pháp luật tại xã đặc biệt khó khăn và Tủ sách pháp luật tại cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang nhân dân) theo quy định sau đây:

- Tổ chức rà soát, đánh giá hiệu quả, xác định nhu cầu khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật cấp xã, Tủ sách pháp luật ở cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý và hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2019 để xem xét, quyết định hướng xử lý.

- Nếu tiếp tục duy trì Tủ sách pháp luật cấp xã, Tủ sách pháp luật ở cơ quan, đơn vị thì chỉ đạo, hướng dẫn, bố trí kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động của Tủ sách pháp luật đến hết năm 2020.

Từ năm 2021, thực hiện xã hội hóa việc quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật theo hướng tự quản cộng đồng;

- Nếu không tiếp tục duy trì Tủ sách pháp luật cấp xã thì chỉ đạo, hướng dẫn sáp nhập Tủ sách pháp luật thành bộ phận sách, tài liệu pháp luật của Thư viện hoặc điểm Bưu điện - Văn hóa, Trung tâm học tập cộng đồng hiện có đang hoạt động hiệu quả trên địa bàn cấp xã và bố trí kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động của Tủ sách pháp luật đến hết năm 2020.

Từ năm 2021, kinh phí xây dựng, quản lý, khai thác sách, tài liệu pháp luật được bố trí trong kinh phí hoạt động của thiết chế văn hóa - thông tin mà Tủ sách pháp luật được sáp nhập. Việc sáp nhập Tủ sách pháp luật hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2020.

- Nếu không tiếp tục duy trì Tủ sách pháp luật ở cơ quan, đơn vị thì chỉ đạo tổ chức lưu giữ, quản lý các sách, tài liệu pháp luật hiện có phù hợp với điều kiện của cơ quan, đơn vị theo quy định về quản lý tài sản công và hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2020; bố trí kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động của Tủ sách pháp luật đến hết năm 2020; chỉ đạo lựa chọn sách, tài liệu phù hợp, có giá trị để số hóa, cập nhật trên dữ liệu thành phần của Tủ sách pháp luật điện tử quốc gia theo phạm vi thẩm quyền quản lý.

Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Kế hoạch số 76/KH-UBND ngày 05/4/2019 để triển khai thực hiện.

 3. Trên địa bàn cấp xã có một trong các loại hình Câu lạc bộ được xây dựng và tổ chức sinh hoạt pháp luật theo định kỳ (Câu lạc bộ pháp luật; Câu lạc bộ phòng, chống tội phạm; Câu lạc bộ nông dân, phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh hoặc Câu lạc bộ khác). Định kỳ hàng tháng, quý, 6 tháng, năm.

 Theo yêu cầu nhiệm vụ, hiện nay một số địa phương có thành lập Câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý và Câu lạc bộ Tuổi trẻ phòng chống tội phạm theo các Chương trình, nhiệm vụ do Sở Tư pháp hướng dẫn. Ngoài ra, còn có các mô hình CLB khác thuộc các nhiệm vụ của các ngành khác.

Tùy theo mục đích, đối tượng tham gia Câu lạc bộ pháp luật, nội dung hoạt động của Câu lạc bộ phù hợp, sát thực với đối tượng và đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương. Chủ đề pháp luật là nội dung chủ yếu trong các kỳ sinh hoạt, học tập, tổ chức giao lưu của Câu lạc bộ. 

Ngoài những nội dung pháp luật mà mọi đối tượng đều cần biết như dân sự, hình sự, đất đai...thì các Câu lạc bộ tuyên truyền các lĩnh vực pháp luật phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể (đối tượng là phụ nữ thì tập trung tìm hiểu, tuyên truyền pháp luật về dân số, hôn nhân và gia đình, sức khoẻ sinh sản...; đối tượng là nông dân thì tập trung phổ biến về chính sách xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn; đối tượng là người lao động thì tuyên truyền về pháp luật lao động, công đoàn...). Bên cạnh đó, các chính sách, quy định của cơ quan chính quyền địa phương cũng là nội dung cần được Câu lạc bộ quan tâm, khai thác và kịp thời tuyên truyền cho các hội viên nói riêng và nhân dân nói chung.

Phương thức tổ chức hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật

Để thu hút số lượng hội viên tham gia Câu lạc bộ, giúp cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong Câu lạc bộ có hiệu quả thì phương thức tổ chức sinh hoạt của Câu lạc bộ khá đa dạng, phong phú. Câu lạc bộ thường tập trung tổ chức sinh hoạt theo các phương thức sau:

- Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về nội dung pháp luật, giới thiệu văn bản pháp luật mới;

- Tổ chức hoạt động thi tìm hiểu pháp luật, hái hoa dân chủ, giải đáp pháp luật;

- Cung cấp thông tin, tư liệu pháp luật (sách, báo, văn bản pháp luật, tờ gấp).

Ngoài phương thức sinh hoạt như trên, một số Câu lạc bộ pháp luật tổ chức các hình thức sinh hoạt khác phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan (Câu lạc bộ “Trợ giúp pháp lý” của phường Phú Hội thường xuyên tổ chức sinh hoạt vào buổi tối, ngay tại các địa điểm khu dân cư, thậm chí tại các chợ để chị em tiểu thương cùng tham gia. Câu lạc bộ Tuổi trẻ phòng chống tội phạm của trường THPT Nguyễn Chí Thanh phối hợp với Đoàn trường thực hiện sinh hoạt và tuyên truyền pháp luật cho học sinh, chú trọng phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, kiên quyết không để xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật trong trường học,…).

Đánh giá chung về kết quả: Với sự hỗ trợ, hướng dẫn của các cấp, các ngành; sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, các mô hình Câu lạc bộ pháp luật đã được xây dựng, tổ chức và hoạt động khá bài bản, tuân thủ quy chế/điều lệ đã đề ra, thực hiện sinh hoạt nề nếp, sáng tạo trong phương thức tổ chức hoạt động. Những kết quả đạt được đã góp phần đáng kể vào công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật không chỉ cho các thành viên Câu lạc bộ mà còn mở rộng đến nhiều đối tượng khác, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cốt cán ở cơ sở và bà con nhân dân. Hiệu quả đạt được đã khẳng định mục đích, sự cần thiết của việc xây dựng, duy trì các mô hình câu lạc bộ pháp luật.

Một số khó khăn, hạn chế:

(1) Thể chế tổ chức, hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật

Mỗi mô hình Câu lạc bộ được xây dựng, tổ chức và hoạt động theo quy định, hướng dẫn riêng của từng ngành nhằm phục vụ cho các mục đích hoạt động của từng chương trình, đề án khác nhau. Vì vậy, chưa có văn bản quy định chung về câu lạc bộ pháp luật, dẫn đến sự thiếu thống nhất, trùng lặp, chồng chéo trong xây dựng, tổ chức và hoạt động của các mô hình này.

(2) Sự quan tâm của các ngành, các cấp đối với Câu lạc bộ pháp luật

- Các ngành, các cấp thiếu sự quan tâm, hỗ trợ thường xuyên, liên tục trong xây dựng, tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật. 

- Ngay từ khi mới có chủ trương thành lập các Câu lạc bộ, cơ quan quản lý Nhà nước có ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức, hoạt động của các Câu lạc bộ pháp luật; tổ chức tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ. Tuy nhiên, các năm gần đây, việc theo dõi tình hình hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật được gắn với công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung, chưa có sự hỗ trợ, đánh giá riêng đối với công tác này.

- Công tác kiểm tra tình hình hoạt động của các Câu lạc bộ được lồng ghép vào công tác kiểm tra chuyên ngành và kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung. Về công tác sơ kết, tổng kết, chưa thực hiện sơ kết, tổng kết. Việc đánh giá hoạt động của câu lạc bộ pháp luật thực hiện gắn với các chương trình, Đề án có liên quan.

(3) Thiếu nguồn lực hoạt động

- Đa số các Câu lạc bộ pháp luật thiếu địa điểm sinh hoạt ổn định.

- Thiếu nguồn kinh phí hỗ trợ, duy trì hoạt động của Câu lạc bộ. Các Câu lạc bộ khi mới được thành lập được hỗ trợ kinh phí hoạt động từ các chương trình, đề án có liên quan. Tuy nhiên, sau một thời gian, kinh phí từ các chương trình, đề án không còn duy trì hoặc bị cắt giảm thì Câu lạc bộ không được đính hướng hoạt động như thế nào.

(4) Tình trạng chồng chéo, trùng lập trong tổ chức, hoạt động của các mô hình câu lạc bộ pháp luật

Hiện nay, tại các xã, phường, thị trấn, tồn tại nhiều mô hình Câu lạc bộ khác nhau. Tuy nhiên, các Câu lạc bộ này có thành phần, nội dung sinh hoạt có lúc trùng nhau, ảnh hưởng đến hiệu quả chung hoặc gây nên tình trạng lãng phí nguồn lực.

Đề xuất, kiến nghị:

(1) Về thể chế, đề nghị Bộ Tư pháp ban hành văn bản quy định chung về xây dựng, tổ chức và hoạt động của các mô hình Câu lạc bộ pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để củng cố, kiện toàn, đổi mới hoạt động của Câu lạc bộ pháp luật, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;

Hướng dẫn việc sáp nhập các mô hình câu lạc bộ có thành phần, nội dung hoạt động trùng lập tại địa phương để nâng cao chất lượng và tiết kiệm nguồn lực.

(2) Kính đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh chỉ đạo các cơ quan, chính quyền địa phương các cấp quan tâm đến việc xây dựng, tổ chức, hoạt động của các câu lạc bộ pháp luật, phát huy hiệu quả của mô hình này trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ ở cơ sở mà ở khối các trường học, cơ quan, tổ chức, đoàn thể.

(3) Đề nghị các ngành có tham mưu quản lý Nhà nước về câu lạc bộ pháp luật thường xuyên hướng dẫn về nghiệp vụ và các vấn đề liên quan để Câu lạc bộ ổn định tình hình hoạt động.

VI. Chỉ tiêu 8: Tổ chức đối thoại chính sách, pháp luật theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương (Thực hiện theo quy định),

VII. Chỉ tiêu 9: Bố trí đủ kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy định

Bố trí đủ kinh phí (Bố trí đủ kinh phí là thực hiện đúng quy định về định mức, mức chi, nội dung chi để bảo đảm thực hiện có nhiệm vụ được giao theo Kế hoạch đã được phê duyệt).

Như vậy, lưu ý mối liên hệ giữa kế hoạch PBGDPL hàng năm của địa phương với nguồn kinh phí thực tế đáp ứng yêu cầu công việc. Kế hoạch đưa ra các hoạt động cụ thể và cần bảo đảm được nguồn kinh phí. Nếu không có nguồn kinh phí, chúng ta có giải pháp lồng ghép vào các hoạt động, nhiệm vụ khác để hoàn thành Kế hoạch.

Để lập kế hoạch kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên cần xác định:

Thứ nhất, xác định phạm vi công việc thực hiện

Việc xác định phạm vi công việc thực hiện giúp định hướng các mục chi sẽ áp dụng.

Thứ hai, xác định nội dung chi và mức chi

Căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật liên quan để xác định nội dung chi và mức chi.

Thứ ba, xác định nguồn kinh phí

- Nguồn kinh phí từ ngân sách cơ quan

- Nguồn kinh phí chi cho hoạt động nghiệp vụ (thực hiện Đề án, chương trình,...).

- Nguồn kinh phí do các cơ quan, tổ chức hỗ trợ/phối hợp thực hiện.

Thứ tư, xây dựng kế hoạch sử dụng/kế hoạch chi kinh phí

- Đưa ra căn cứ văn bản áp dụng để chi

- Nêu rõ từng nội dung công việc và mức chi cụ thể

Thứ năm, Kế hoạch sử dụng kinh phí phải được Lãnh đạo phê duyệt.

Các văn bản liên quan trực tiếp đến xây dựng kế hoạch kinh phí và sử dụng, quản lý, thanh quyết toán kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên, gồm:

- Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND ngày 12 tháng 6 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quy định mức chi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh.

- Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27 tháng 01 năm 2014 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.

TÓM LẠI: Cần đưa tất cả các hoạt động PBGDPL trong chỉ tiêu vào kế hoạch PBGDPL làm căn cứ để triển khai thực hiện và chấm điểm chuẩn TCPL; lưu trữ đầy đủ các tài liệu chứng minh. Để khi cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác minh tại sao mình chấm điểm chứng này mà ko phải là điểm khác, thì có tài liệu để chứng minh.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày