PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Ông Phan Thanh Hùng trú tại xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc hỏi: Thời gian qua, một số đối tượng có lời nói, bài viết xuyên tạc về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của ta. Để tuyên truyền, vận động người dân, ông đề nghị nói rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật nước ta như thế nào?
Tiếp tục kế thừa và phát triển những quy định của các bản Hiến pháp trước đây về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp năm 2013 đã có những đổi mới quan trọng đặc biệt liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 14 Hiến pháp), “mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (Điều 24 Hiến pháp). Để cụ thể hóa nguyên tắc hiến định này; đồng thời trên cơ sở thực tiễn triển khai thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, ngày 18/11/2016, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV, Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội biểu quyết thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Luật có nhiều điểm mới, tiến bộ thể hiện rõ nét và đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo…. hợp với đời sống tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay cũng như nâng cao hiệu lực,hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Một trong những nội dung cơ bản trong Luật và thể hiện rõ nét quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quy định về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Cụ thể:
1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
Trên cơ sở kế thừa một số quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bên cạnh các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở nhiều điều, khoản, Luật dành một chương quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhiều chủ thể.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người: Điều 6 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định các chủ thể được thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. 2. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo. 3. Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. 4. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác. 5. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.” Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của tất cả mọi người và quyền này không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi. Đây cũng là quy định tương đồng với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc: Điều 7 của Luật quy định mang tính nguyên tắc về các quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, gồm: Hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và văn bản có nội dung tương tự (sau đây gọi chung là hiến chương) của tổ chức tôn giáo; tổ chức sinh hoạt tôn giáo; xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo; cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo; nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho; các quyền khác theo quy định của pháp luật.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam: Điều 8 Luật nêu rõ: Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có quyền: Sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam.
2. Nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định các quyền cơ bản cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Đồng thời, Luật cũng xác định cụ thể nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện các hoạt động liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Điều 9 của Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đó là tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp, Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các quy định khác của pháp luật có liên quan; chức sắc, chức việc, nhà tu hành, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm hướng dẫn tín đồ, người tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo thực hiện hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, trên đây là những quy định mang tính nguyên tắc về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tại Việt Nam; bên cạnh quyền thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Các quyền và nghĩa vụ cụ thể trong từng lĩnh vực, từng hoạt động được Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản pháp luật liên quan quy định chi tiết để triển khai thực hiện. Bác Thành là cán bộ ở cơ sở, bám sát nội dung trên để thông tin, tuyên truyền cho bà con nhân dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ về quyền tự do tín ngưỡng của Nhà nước ta.
Bà Linh là thành viên Hội Phụ nữ xã T, huyện Nam Đông đề nghị cho biết: Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Tuy nhiên, hiện nay có một số đối tượng lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi, làm mất lòng tin của người dân. Pháp luật quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như thế nào, đồng thời nghiêm cấm những hành vi nào?
Điều 3 và Điều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:
Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
1. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân.
3. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.
Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.
4. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo:
a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường;
b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân;
d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
5. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.
Như vậy, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, pháp luật quy định mang tính nguyên tắc về trách nhiệm của nhà nước, trách nhiệm này được quy định cụ thể qua các nội dung trong công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, Nhà nước cũng yêu cầu việc hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải trong khuôn khổ pháp luật, cụ thể là không được thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm trong công tác này, kể cả hành vi lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi. Trường hợp có hành vi vi phạm thì sẽ bị xử lý hành chính, hình sự tùy theo tính chất, mức độ vi phạm.
Gia đình tôi được sự cho phép của chính quyền địa phương xây dựng nhà thờ họ Nguyễn Hữu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho con cháu trong dòng họ đến dâng hương, tưởng nhớ nhân những ngày Giỗ và những ngày kỷ niệm. Tôi xin hỏi, nhà thờ họ có được coi là cơ sở tín ngưỡng hay không? Hoạt động của nhà thờ họ có được xem là hoạt động tín ngưỡng không? Và nếu đây là hoạt động tín ngưỡng thì phải bầu người đại diện và đăng ký như thế nào?
Khoản 2, Khoản 4 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định:
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh thiêng; tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng; các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng như đình, đền, miếu, nhà thờ dòng họ và những cơ sở tương tự khác.
Điều 11 Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định về người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng:
1. Cơ sở tín ngưỡng phải có người đại diện hoặc ban quản lý để chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng.
2. Người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng phải là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có uy tín trong cộng đồng dân cư.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức để cộng đồng dân cư bầu, cử người đại diện hoặc thành viên ban quản lý. Căn cứ kết quả bầu, cử và các điều kiện quy định tại khoản 2 nêu trên, Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản công nhận người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bầu, cử.
4. Việc bầu, cử người đại diện hoặc thành lập ban quản lý cơ sở tín ngưỡng đã được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
5. Việc bầu, cử người đại diện hoặc thành lập ban quản lý nhà thờ dòng họ không phải thực hiện theo quy định tại khoản 3 nêu trên.
Điều 12 Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định đăng ký hoạt động tín ngưỡng:
1. Hoạt động tín ngưỡng của cơ sở tín ngưỡng phải được đăng ký, trừ cơ sở tín ngưỡng là nhà thờ dòng họ.
2. Người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng chậm nhất là 30 ngày trước ngày cơ sở tín ngưỡng bắt đầu hoạt động tín ngưỡng, trừ trường hợp quy định tại Điều 14 của Luật này.
Văn bản đăng ký nêu rõ tên cơ sở tín ngưỡng, các hoạt động tín ngưỡng, nội dung, quy mô, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động.
Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.
3. Hoạt động tín ngưỡng không có trong văn bản đã được đăng ký thì người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm đăng ký bổ sung theo quy định tại khoản 2 nêu trên chậm nhất là 20 ngày trước ngày diễn ra hoạt động tín ngưỡng.
Căn cứ các quy định trên, nhà thờ dòng họ là cơ sở tín ngưỡng và hoạt động thờ cúng tổ tiên là hoạt động tín ngưỡng. Người đại diện hoặc thành lập ban quản lý nhà thờ dòng họ chỉ cần đáp ứng điều kiện là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có uy tín; không cần phải qua thủ tục tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Hoạt động tín ngưỡng của nhà thờ dòng họ không cần phải đăng ký.
Chị Bông trú tại xã T, hỏi: Chị có người nhà đang bị tam giam. Gia đình chị theo phật giáo và người đang bị tạm giam có được sử dụng kinh sách không?
Khoản 5 Điều 6 Luật Tín ngưỡng, tồn giáo quy ddnhj: Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
Điều 4 Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi tắt là Nghị định số 162/2017/NĐ-CP) quy định cụ thể việc sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
1. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là người bị quản lý, giam giữ) được sử dụng kinh sách xuất bản dưới hình thức sách in, phát hành hợp pháp để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân và được thể hiện niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo bằng lời nói hoặc hành vi của cá nhân theo quy định của pháp luật về nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là cơ sở quản lý, giam giữ).
2. Việc sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của người bị quản lý, giam giữ tại cơ sở quản lý, giam giữ không được làm ảnh hưởng đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác và không trái với quy định của pháp luật có liên quan.
3. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm hướng dẫn cách thức quản lý kinh sách, thời gian, địa điểm sử dụng kinh sách và bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo cho người bị quản lý, giam giữ tại cơ sở quản lý, giam giữ.
Căn cứ quy định trên, người nhà đang bị tam giam của chị Bông có quyền sử dụng kinh sách theo hướng dẫn cụ thể của cơ quan chức năng.
Cô Hoàng trú tại huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế, hỏi: Được biết Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Luật có ảnh hưởng đến các lễ hội của địa phương không?
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 18/11/2016, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018. Khoản 3 Điều 2 của Luật quy định: Lễ hội tín ngưỡng là hoạt động tín ngưỡng tập thể được tổ chức theo lễ nghi truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng.
Điều 10 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định nguyên tắc tổ chức hoạt động tín ngưỡng:
1. Hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
2. Việc tổ chức hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm, bảo vệ môi trường.
Điều 13 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ:
1. Người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng diễn ra định kỳ chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức lễ hội đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định sau đây:
a) Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức lễ hội có trách nhiệm tiếp nhận thông báo đối với lễ hội tín ngưỡng có quy mô tổ chức trong một xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã);
b) Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi tổ chức lễ hội có trách nhiệm tiếp nhận thông báo đối với lễ hội tín ngưỡng có quy mô tổ chức trong nhiều xã thuộc một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là huyện);
c) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tổ chức lễ hội có trách nhiệm tiếp nhận thông báo đối với lễ hội tín ngưỡng có quy mô tổ chức trong nhiều huyện thuộc một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là tỉnh).
2. Văn bản thông báo nêu rõ tên lễ hội tín ngưỡng, nội dung, quy mô, thời gian, địa điểm tổ chức, dự kiến thành viên ban tổ chức và các điều kiện cần thiết để bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường trong lễ hội.
3. Việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ tại cơ sở tín ngưỡng là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
4. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1 nêu trên có trách nhiệm bảo đảm việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng theo nội dung thông báo.
Như vậy, do cô Hoàng không nêu rõ về lễ hội tín ngưỡng tại địa phương nên chúng tôi giới thiệu quy định mang tính nguyên tắc để cô đối chiếu xem lễ hội nào của địa phương thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và có bảo đảm điều kiện tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ như trên không.
Định kỳ hàng năm, Đình làng K thuộc xã H, huyện Phú Vang có tổ chức lễ hội tín ngưỡng đầu năm cầu mưa thuận gió hòa cho bà con trong thôn. Nay Ban Quản lý Đình làng K họp bàn và thống nhất mở rộng quy mô tổ chức lễ hội. Việc này có phải đăng ký với cơ quan chức năng không, nếu có thì đăng ký với cơ quan nào?
Điều 14 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:
1. Trước khi tổ chức lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi phục sau thời gian gián đoạn hoặc lễ hội tín ngưỡng được tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi về quy mô, nội dung, thời gian, địa điểm thì người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tổ chức lễ hội.
Văn bản đăng ký nêu rõ tên lễ hội, nội dung lễ hội hoặc nội dung thay đổi so với trước, quy mô, thời gian, địa điểm tổ chức, dự kiến thành viên ban tổ chức và các điều kiện cần thiết để bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường trong lễ hội.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.
Theo quy định trên, mắc dù lễ hội tín ngưỡng của đình làng K đã được tổ chức định kỳ hàng năm nhưng có thay đổi về quy mô thì Ban quản lý của đình làng K phải gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ, ban nhân dân cấp tỉnh sẽ trả lời bằng văn bản.
Bà Mỹ cho biết, tổ chức phật giáo do bà thành lập đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Bà Có thể tổ chức sinh hoạt tôn giáo tập trung cho những người thuộc tổ chức không?
Điều 16 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung
1. Tổ chức tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho tín đồ tại những nơi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho những người thuộc tổ chức khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Có địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo;
b) Nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung có người đại diện là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự;
c) Nội dung sinh hoạt tôn giáo không thuộc trường hợp bị nghiêm cấm quy định tại Điều 5 của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Những người theo tôn giáo không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 nêu trên được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung khi đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 và các điều kiện sau đây:
a) Có giáo lý, giáo luật;
b) Tên của nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung không trùng với tên tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc.
Theo quy định trên, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho những người thuộc tổ chức khi đáp ứng đủ các điều kiện tại khoản 1 nêu trên. Bà K đối chiếu quy định trên để biết cơ sở của mình có bảo đảm điều kiện tổ chức sinh hoạt tôn giáo tập trung không.
Bà Hoa trú tại xã P, huyện Phú Lộc đề nghị cho biết: Một tổ chức nếu có giáo lý, giáo luật, lễ nghi thì có thể đề nghị cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo không? Sau khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo thì tổ chức này được thực hiện các hoạt động gì?
Điều 18 và Điều 20 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:
Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
1. Có giáo lý, giáo luật, lễ nghi;
2. Có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động không trái với quy định của pháp luật;
3. Tên của tổ chức không trùng với tên tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc;
4. Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự;
5. Có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở;
6. Nội dung hoạt động tôn giáo không thuộc trường hợp bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
Hoạt động của tổ chức sau khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo
1. Tổ chức sau khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo được thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo, giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý;
b) Bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc;
c) Sửa chữa, cải tạo trụ sở;
d) Tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo;
đ) Tổ chức đại hội thông qua hiến chương.
2. Khi thực hiện hoạt động quy định tại khoản 1 nêu trên, tổ chức phải tuân thủ quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, quy định khác của pháp luật có liên quan.
Như vậy, một tổ chức nếu có giáo lý, giáo luật, lễ nghi thì chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Muốn được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo thì phải bảo đảm tất cả các điều kiện như quy định tại Điều 18 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo như giới thiệu ở trên; và sau khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo thì được thực hiện các hoạt động: Tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo, giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý; bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc; sửa chữa, cải tạo trụ sở; tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo; tổ chức đại hội thông qua hiến chương.
Bà Hằng là người của tổ chức H. Bà cho biết, tổ chức H đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động ổn định, liên tục từ 7 năm nay. Nay những người lãnh đạo của tổ chức họp bàn và muốn đề nghị được công nhận là tổ chức tôn giáo. Bà Hằng đề nghị cho biết, để được công nhận là tổ chức tôn giáo thì phải đáp ứng những điều kiện gì?
Điều 21 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:
Tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo được công nhận là tổ chức tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
1. Hoạt động ổn định, liên tục từ đủ 05 năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo;
2. Có hiến chương theo quy định;
3. Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự;
4. Có cơ cấu tổ chức theo hiến chương;
5. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
6. Nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như vậy, tổ chức H đã hoạt động ổn định, liên tục từ 07 năm nay là bảo đảm điều kiện về thời gian; ngoài ra, bà Hằng cần đối chiếu với các điều kiện khác như giới thiệu ở trên để xác định tổ chức H có đủ điều kiện để được công nhận là tổ chức tôn giáo hay không.
Ông Phú là người của tổ chức tôn giáo H. Ông được giao nhiệm vụ soạn thảo Hiến chương của tổ chức. Trong dự thảo, ông Phú đã nêu những vấn đề cơ bản nhất của tổ chức tôn giáo, như: Tên, nguyên tắc hoạt động, trụ sở, địa bàn hoạt động, tài sản, người đại diện,... Để bảo đảm nội dung của Hiến chương, ông Phú đề nghị cho biết, pháp luật có quy định về nội dung của Hiến chương của tổ chức tôn giáo không? Hiến chương sau khi ban hành có thể thay đổi được không? Tên của tổ chức tôn giáo có thể bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài không?
Điều 23, 24, 25 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định như sau:
Hiến chương của tổ chức tôn giáo có những nội dung cơ bản sau đây:
(1) Tên của tổ chức;
(2) Tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc hoạt động;
(3) Địa bàn hoạt động, trụ sở chính;
(4) Tài chính, tài sản;
(5) Người đại diện theo pháp luật, mẫu con dấu;
(6) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc;
(7) Nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc;
(8) Điều kiện, tiêu chuẩn, thẩm quyền, cách thức phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành;
(9) Điều kiện, thẩm quyền, cách thức giải thể tổ chức tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc;
(10) Việc tổ chức hội nghị, đại hội; thể thức thông qua quyết định, sửa đổi, bổ sung hiến chương; nguyên tắc, phương thức giải quyết tranh chấp nội bộ của tổ chức;
(11) Quan hệ giữa tổ chức tôn giáo với tổ chức tôn giáo trực thuộc, giữa tổ chức tôn giáo với tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Tổ chức tôn giáo khi sửa đổi hiến chương phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Văn bản đăng ký nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, người đại diện, nội dung, lý do sửa đổi kèm theo hiến chương sửa đổi. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do. Tổ chức tôn giáo được hoạt động theo hiến chương sửa đổi kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Tổ chức tôn giáo phải có tên bằng tiếng Việt. Tên của tổ chức tôn giáo không trùng với tên tổ chức tôn giáo khác hoặc tổ chức khác đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc. Tên của tổ chức tôn giáo được sử dụng trong quan hệ với tổ chức, cá nhân khác. Tên của tổ chức tôn giáo được pháp luật công nhận và bảo vệ. Tổ chức tôn giáo thay đổi tên phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Tổ chức tôn giáo trực thuộc thay đổi tên thì tổ chức tôn giáo có trách nhiệm đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Như vậy, Hiến chương của tổ chức tôn giáo phải bảo đảm các nội dung như trên. Hiến chương sau khi bàn hành có thể được sửa đổi và phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về tên của tổ chức tôn giáo phải có tên bằng tiếng Việt.
Tổ chức tôn giáo T dự định thay đổi trụ sở sang một huyện khác. Việc này phải được sự chấp thuận của cơ quan nào và có cần phải báo cáo với cơ quan đã ra quyết định công nhận tổ chức tôn giáo không?
Điều 26 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo như sau:
1. Tổ chức tôn giáo khi thay đổi trụ sở phải được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở mới và phải thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo, cụ thể như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở một tỉnh.
b) Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh.
2. Tổ chức tôn giáo trực thuộc khi thay đổi trụ sở phải được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở mới và thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau đây:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở một tỉnh.
b) Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh.
Căn cứ quy định trên, tổ chức tôn giáo T thay đổi trụ sở phải được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở mới và phải thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo như giới thiệu tại khoản 1 nêu trên.
Ông Bang là thành viên của tổ chức tôn giáo P. Ông cho biết, Hiến chương của tổ chức tôn giáo P không quy định về việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc. Vậy tổ chức tôn giáo P có thể thực hiện chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc không? Việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc được pháp luật quy định như thế nào?
Điều 27, Điều 28 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định như sau:
1. Thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc:
- Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; chia, tách tổ chức tôn giáo trực thuộc thành nhiều tổ chức tôn giáo trực thuộc mới; sáp nhập tổ chức tôn giáo trực thuộc vào một tổ chức tôn giáo trực thuộc khác; hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc thành một tổ chức tôn giáo trực thuộc mới.
- Sau khi chia, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị chia chấm dứt tồn tại; quyền, nghĩa vụ của tổ chức tôn giáo trực thuộc bị chia được chuyển giao cho các tổ chức tôn giáo trực thuộc mới.
- Sau khi tách, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị tách và tổ chức tôn giáo trực thuộc được tách thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình phù hợp với mục đích hoạt động.
- Sau khi sáp nhập, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; quyền và nghĩa vụ của tổ chức tôn giáo trực thuộc bị sáp nhập được chuyển giao cho tổ chức tôn giáo trực thuộc mà tổ chức đó được sáp nhập vào.
- Sau khi hợp nhất, các tổ chức tôn giáo trực thuộc cũ chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm tổ chức tôn giáo trực thuộc mới được thành lập; quyền và nghĩa vụ của tổ chức tôn giáo trực thuộc cũ được chuyển giao cho tổ chức tôn giáo trực thuộc mới.
2. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- Hiến chương của tổ chức tôn giáo có quy định về việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc;
- Hoạt động của tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi chia, tách, sáp nhập, hợp nhất không thuộc trường bị nghiêm cấm quy định tại Điều 5 của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo;
- Có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở.
Căn cứ quy định trên, nếu Hiến chương của tổ chức tôn giáo T không quy định về việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc thì không đảm bảo điều kiện để thực hiện chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc. Để thực hiện việc này, tổ chức tôn giáo T có thể sửa đổi Hiến chương của tổ chức theo quy định. Về những vấn đề liên quan đến việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc được pháp luật quy định như trên.
Ông Linh là thành viên của tổ chức tôn giáo Y. Tổ chức Y có tổ chức tôn giáo trực thuộc và tổ chức này có tài sản độc lập, hoạt động bằng chính tài sản của tổ chức mình; luôn nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập. Ông Linh đề nghị cho biết: Tổ chức tôn giáo Y có thể đề nghị công nhận tư cách pháp nhân cho tổ chức tôn giáo trực thuộc của minh không?
Điều 30 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:
1. Tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
2. Tổ chức tôn giáo đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
- Nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
3. Tổ chức tôn giáo đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau đây cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở một tỉnh.
- Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh.
Như vậy, tổ chức Y cso thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền nêu trên cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng các điều kiện: Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Tổ chức tôn giáo NM bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo trong thời hạn 3 tháng. Đến nay thời hạn này sắp hết nhưng tổ chức tôn giáo MN vẫn chưa khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ. Vậy trong trường hợp tổ chức tôn giáo MN không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ hoạt động tôn giao khi hết thời hạn thì bị xử lý như thế nào? Cơ quan nào có thẩm quyền xử lý?
Điều 31 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc như sau:
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc giải thể trong trường hợp sau đây:
a) Theo quy định của hiến chương;
b) Không hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hoặc chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất; ngừng hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm liên tục;
c) Hết thời hạn bị đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo có quyền giải thể tổ chức tôn giáo.
Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có quyền giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau đây có quyền giải thể hoặc yêu cầu tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc trong các trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 nêu trên:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở một tỉnh.
- Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh.
3. Trước khi giải thể, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài sản. Tài sản của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị giải thể được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự.
Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo về việc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở một tỉnh; cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh) chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày tổ chức tôn giáo trực thuộc bị giải thể.
Căn cứ quy định trên, nếu hết thời hạn bị đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ, tổ chức tôn giáo MN không khắc phục được các nguyên nhân này thì phải giải thể. Cơ quan có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo có quyền giải thể tổ chức tôn giáo, cụ thể là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức tôn giáo có địa bàn hoạt động ở một tỉnh; cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với tổ chức tôn giáo có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh.
Tổ chức tôn giáo H đã giải thể theo quy định của hiến chương. Sau khi giải thể, việc công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc giải thể tổ chức tôn giáo được pháp luật quy định như thế nào?
Điều 14 Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định trách nhiệm công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo như sau:
1. Việc giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo phải được công bố công khai trên ba số báo viết hoặc báo điện tử ở trung ương hoặc địa phương nơi có trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo trong thời hạn 15 ngày sau khi giải thể.
2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có quyền giải thể chịu trách nhiệm việc công bố theo quy định tại khoản 1 nêu trên.
Như vậy, sau khi giải thể tổ chức tôn giáo theo quy định của Hiến chương, phải thực hiện công bố công khai theo như quy định trên.
Cơ sở đào tạo tôn giáo Q bị giải thể do hết thời hạn bị đình chỉ hoạt động đào tạo tôn giáo mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ. Cơ sở đào tạo tôn giáo không đồng ý với quyết định giải thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ sở đào tạo tôn giáo Q có thể khiếu nại về Quyết định này không?
Điều 15 Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định về chấm dứt hoạt động, quyền khiếu nại của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo khi bị giải thể như sau:
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo chấm dứt hoạt động kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về việc giải thể.
2. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị giải thể (do: Không hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hoặc chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất; ngừng hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm liên tục; hết thời hạn bị đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ); Cơ sở đào tạo tôn giáo bị giải thể (do: Hết thời hạn 03 năm kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận việc thành lập, cơ sở đào tạo tôn giáo không tổ chức được hoạt động đào tạo; hết thời hạn bị đình chỉ hoạt động đào tạo tôn giáo mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ) nếu không đồng ý với quyết định giải thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo không được thực hiện hoạt động tôn giáo, hoạt động đào tạo tôn giáo.
Như vậy, Cơ sở đào tạo tôn giáo Q nếu không đồng tình với quyết định giải thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Tổ chức tôn giáo HG có người được phong phẩm làm hòa thượng. Tổ chức tôn giáo HG có phải thông báo về vấn đề này không và thông báo với cơ quan nào, trong thời hạn bao lâu, văn bản thông báo phải có nội dung gì?
Điều 33 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về thông báo người được phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc như sau:
1. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương về người được phong phẩm hoặc suy cử làm hòa thượng, thượng tọa, ni trưởng, ni sư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam; mục sư của các tổ chức Tin lành; phối sư trở lên của các Hội thánh Cao đài; giảng sư trở lên của Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam và các phẩm vị tương đương của tổ chức tôn giáo khác chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày phong phẩm hoặc suy cử.
2. Đối với các trường hợp phong phẩm hoặc suy cử chức sắc không thuộc quy định tại khoản 1 nêu trên, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi chức sắc cư trú và hoạt động tôn giáo chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày phong phẩm hoặc suy cử.
3. Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, họ và tên, phẩm vị, địa bàn hoạt động, tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo kèm theo sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp của chức sắc.
4. Trường hợp người được phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc không đáp ứng quy định sau đây, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tôn giáo hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử chức sắc: Người được phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử chức sắc và có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1 và khoản 2 nêu trên.
Như vậy, trường hợp tổ chức tôn giáo có người được phong phẩm hòa thượng thì phải thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương khác chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày phong phẩm. Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, họ và tên, phẩm vị, địa bàn hoạt động, tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo kèm theo sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp của chức sắc.
Tổ chức tôn giáo PH dự kiến thuyên chuyển một số chức việc. Trước khi thực hiện việc thuyên chuyển, tổ chức tôn giáo PH có cần được sự đồng ý của cơ quan nhà nước không?
Điều 35 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành như sau:
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi đi và nơi đến chậm nhất là 20 ngày.
Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức thông báo, họ và tên, phẩm vị, chức vụ của người được thuyên chuyển, lý do thuyên chuyển, địa bàn hoạt động tôn giáo trước khi thuyên chuyển, địa bàn hoạt động sau khi được thuyên chuyển đến.
2. Trước khi thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người đang bị buộc tội hoặc chưa được xóa án tích, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi dự kiến thuyên chuyển đến.
Văn bản đăng ký nêu rõ tên tổ chức đăng ký, họ và tên, phẩm vị, chức vụ của người được thuyên chuyển, lý do thuyên chuyển, địa bàn hoạt động tôn giáo trước khi thuyên chuyển, địa bàn hoạt động sau khi được thuyên chuyển đến.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.
Theo quy định trên, trước khi thuyên chuyển chức việc, tổ chức tôn giáo PH phải thông báo bằng văn bản đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi đi và nơi đến chậm nhất là 20 ngày. Trường hợp thuyên chuyển chức việc là người đang bị buộc tội hoặc chưa được xóa án tích thì phải có văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi dự kiến thuyên chuyển đến và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.
Tổ chức tôn giáo H muốn mở cơ sở đào tạo tôn giáo trên địa bàn tỉnh H. Tổ chức đã có chương trình, nội dung, nhân sự quản lý và giảng dạy, cơ sở vật chất, địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở. Như vậy, tổ chức tôn giáo H đã đủ điều kiện để mở cơ sở đào tạo tôn giáo chưa? Trước mắt, tổ chức tôn giáo H sẽ mở 01 lớp bồi dưỡng người chuyên hoạt động tôn giáo trên dịa bàn tỉnh H. Tổ chức tôn giáo H phải đăng ký với cơ quan nào và trong thời hạn bao lâu thì có kết quả trả lời?
Điều 37 Luật Tín ngưỡng, tồn giáo quy định tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
1. Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc đào tạo;
2. Có địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở đào tạo;
3. Có chương trình, nội dung đào tạo; có môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam trong chương trình đào tạo;
4. Có nhân sự quản lý và giảng dạy đáp ứng yêu cầu đào tạo.
Điều 41 Luật Tín ngưỡng, tồn giáo quy định về mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo như sau:
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc mở lớp bồi dưỡng người chuyên hoạt động tôn giáo có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi mở lớp. Văn bản đăng ký nêu rõ tên lớp, địa điểm, lý do, thời gian học, nội dung, chương trình, thành phần tham dự, danh sách giảng viên.
Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.
2. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi mở lớp chậm nhất là 20 ngày trước ngày khai giảng. Văn bản thông báo nêu rõ tên lớp, địa điểm, lý do, thời gian học, nội dung, chương trình, thành phần tham dự, danh sách giảng viên.
Trường hợp việc mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo có hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại Điều 5 của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Ủy ban nhân dân cấp huyện có văn bản yêu cầu tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc không tổ chức hoặc dừng việc mở lớp bồi dưỡng.
Căn cứ quy định trên, tổ chức tôn giáo H có bản đáp ứng các điều kiện để thành lập cơ sở đào tạo tôn giao; tổ chức tôn giáo H cần đối chiếu, rà soát với điều kiện được nêu tại Điều 37 Luật Tín ngưỡng, tồn giáo để bảo đảm đầy đủ điều kiện quy định. Về mở lớp bồi dưỡng người chuyên hoạt động tôn giáo phải gửi văn bản đăng ký đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo tỉnh H. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký hợp lệ, cơ quan này sẽ trả lời bằng văn bản.
Tổ chức tôn giáo TP được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận việc thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo. Đến nay đã qua hơn 02 năm nhưng cơ sở chưa tổ chức được hoạt động đào tạo do một số nguyên nhân khách quan. Tổ chức tôn giáo TP đề nghị cho biết, pháp luật có quy định về thời hạn phải tổ chức được hoạt động đào tạo của cơ sở đào tạo tôn giáo không? Nếu không bảo đảm thời hạn này thì bị xử lý như thế nào?
Điều 42 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:
1. Cơ sở đào tạo tôn giáo giải thể trong trường hợp sau đây:
a) Theo quyết định của tổ chức tôn giáo;
b) Hết thời hạn 03 năm kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận việc thành lập, cơ sở đào tạo tôn giáo không tổ chức được hoạt động đào tạo;
c) Hết thời hạn bị đình chỉ hoạt động đào tạo tôn giáo mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ.
2. Tổ chức tôn giáo có quyền giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có quyền giải thể hoặc yêu cầu tổ chức tôn giáo giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo trong trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 nêu trên.
Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo về việc giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày giải thể.
Theo quy định trên, pháp luật quy định trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận việc thành lập, cơ sở đào tạo tôn giáo phải tổ chức được hoạt động đào tạo; nếu quá thời hạn này thì bị giải thể theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 42 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo nêu trên.
Cơ sở tôn giáo K có phạm vi hoạt động tôn giáo tại nhiều xã thuộc huyện Phú Vang. Cơ sở tôn giáo K đã có thông báo về danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hàng năm ngay sau khi được công nhận. Tuy nhiên, hiện nay cơ sở tôn giáo K có hoạt động tôn giáo mới chưa có trong danh mục đã thông báo trước đó có được thông báo bổ sung không và văn bản bổ sung gửi đến cơ quan nào?
Điều 43 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về thông báo danh mục hoạt động tôn giáo như sau:
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày được công nhận, chấp thuận hoặc được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo theo quy định sau đây:
a) Tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở một xã gửi thông báo đến Ủy ban nhân dân cấp xã;
b) Tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều xã thuộc một huyện gửi thông báo đến Ủy ban nhân dân cấp huyện;
c) Tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều huyện thuộc một tỉnh gửi thông báo đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh;
d) Tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh gửi thông báo đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
2. Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức, tên các hoạt động tôn giáo, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động.
3. Việc thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm chỉ thực hiện một lần. Đối với hoạt động tôn giáo không có trong danh mục đã thông báo thì người đại diện tổ chức có trách nhiệm thông báo bổ sung theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 nêu trên chậm nhất là 20 ngày trước khi diễn ra hoạt động.
Như vậy, nếu cơ sở tôn giáo K có hoạt động tôn giáo không có trong danh mục đã thông báo thì người đại diện của tổ chức tôn giáo K phải thông báo bổ sung bằng văn bản gửi đến Ủy ban nhân dân huyện Phú Vang chậm nhất là 20 ngày trước khi diễn ra hoạt động. Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức, tên hoạt động tôn giáo, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động.
Ông Hòa là người đại diện của Tổ chức tôn giáo trực thuộc của tổ chức tôn giáo H đề nghị cho biết: Tổ chức tôn giáo trực thuộc dự định tổ chức hội nghị thường niên và có mời một số thành phần là người nước ngoài tham dự. Vậy Tổ chức tôn giáo trực thuộc phải gửi văn bản đề nghị đến cơ quan nào? Văn bản gồm những nội dung gì và trong thời hạn bao lâu thì cơ quan chức năng có kết quả trả lời?
Điều 44 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định Hội nghị của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc như sau:
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tổ chức hội nghị thường niên có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau đây chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức hội nghị:
+ Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với hôi nghị thường niên của tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở một huyện;
+ Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh đối với hội nghị thường niên của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ơ nhiều huyện thuộc một tỉnh;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương đối với hội nghị thường niên không thuộc các trương hợp nêu trên.
Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức; dự kiến thành phần, số lượng người tham dự; nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị.
2. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tổ chức hội nghị liên tôn giáo, hội nghị có yếu tố nước ngoài có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức; lý do tổ chức; dự kiến thành phần, số lượng người tham dự; nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị.
Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
Căn cứ quy định trên, tổ chức tôn giáo trực thuộc muốn tổ chức hội nghị thường niên có mời một số thành phần là người nước ngoài (có yếu tố nước ngoài) thì phải có văn bản đề nghị gửi đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức; lý do tổ chức; dự kiến thành phần, số lượng người tham dự; nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị. Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ, cơ quan chức năng có văn bản trả lời.
Ông Minh là phật tử chuyên giúp việc cho chùa K. Ông Minh được nhà chùa đề nghị giúp thủ tục để nhà chùa tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo đã đăng ký là chùa K. Ông Minh hỏi: Văn bản đề nghị tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo phải có nội dung gì và gửi đến cơ quan nào?
Điều 46 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:
1. Trước khi tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp đã đăng ký, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 dưới đây.
Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức đề nghị, tên cuộc lễ, người chủ trì, nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm thực hiện, quy mô, thành phần tham dự cuộc lễ.
2. Trước khi giảng đạo ngoài địa bàn phụ trách, cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp đã đăng ký, chức sắc, chức việc, nhà tu hành có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 dưới đây.
Văn bản đề nghị nêu rõ họ và tên người đề nghị, nội dung, lý do, chương trình, thời gian, địa điểm thực hiện, thành phần tham dự.
3. Thẩm quyền chấp thuận tổ chức cuộc lễ, giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp:
a) Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về việc tổ chức cuộc lễ, giảng đạo có quy mô tổ chức ở một huyện trong thời hạn 25 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do;
b) Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi dự kiến tổ chức cuộc lễ, giảng đạo có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về việc tổ chức cuộc lễ, giảng đạo có quy mô tổ chức ở nhiều huyện thuộc một tỉnh hoặc ở nhiều tỉnh trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
4. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi tổ chức cuộc lễ, giảng đạo có trách nhiệm hỗ trợ bảo đảm an ninh, trật tự cho cuộc lễ, giảng đạo.
Như vậy, văn bản đề nghị tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo đã đăng ký phải nêu rõ tên tổ chức đề nghị, tên cuộc lễ, người chủ trì, nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm thực hiện, quy mô, thành phần tham dự cuộc lễ. Văn bản gửi đến Ủy ban nhân dân cấp huyện nếu cuộc lễ được tổ chức ở một huyện; gửi đến Cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi dự kiến tổ chức cuộc lễ nếu có quy mô tổ chức ở nhiều huyện thuộc một tỉnh hoặc ở nhiều tỉnh.
Chị Hoa có nhóm bạn là người nước ngoài đang cu trú tại Việt Nam và muốn tổ chức sinh hoạt tôn giáo tập trung. Chị Hoa đề nghị cho biết, người nước ngoài có được sinh hoạt tôn giáo tập trung tại Việt Nam không?
Điều 47 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về việc sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam như sau:
1. Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác gửi hồ sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến sinh hoạt tôn giáo tập trung.
2. Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ họ và tên, quốc tịch, tôn giáo của người đại diện; lý do, thời gian, nội dung sinh hoạt, số lượng người tham gia, cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến sinh hoạt;
b) Bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh việc cư trú hợp pháp tại Việt Nam của người đại diện;
c) Văn bản đồng ý của người đại diện cơ sở tôn giáo hoặc giấy tờ chứng minh có địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung.
3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
Theo quy định trên, Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác gửi hồ sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến sinh hoạt tôn giáo tập trung.
Tổ chức tôn giáo HD dự kiến mời mục sư người nước ngoài vào Việt Nam để giảng đạo. Tổ chức tôn giáo HD phải gửi hồ sơ đến cơ quan nào để xin phép và trong thời hạn bao lâu thì có kết quả trả lời?
Điều 48 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam như sau:
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 dưới đây.
2. Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức mời; tên tổ chức, cá nhân được mời; mục đích, nội dung các hoạt động; danh sách khách mời; dự kiến chương trình, thời gian và địa điểm tổ chức;
b) Bản giới thiệu tóm tắt các hoạt động chủ yếu của tổ chức, cá nhân nước ngoài;
c) Văn bản chứng minh chức danh hoạt động tôn giáo của người được mời.
3. Thẩm quyền chấp thuận hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về việc mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo ở một tỉnh trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về việc mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh hoặc hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
4. Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 nêu trên.
5. Nhóm người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị theo quy định tại khoản 2 nêu trên đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
6. Trong quá trình giảng đạo, chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài phải tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo ở Việt Nam và tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam.
Như vậy, để mời mục sư người nước ngoài vào Việt Nam giảng đạo, tổ chức tôn giáo HD phải gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu thực hiện các hoạt động tôn giáo ở một tỉnh và trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ Ủy ban nhân dân tỉnh trả lời bằng văn bản; hoặc gửi hồ sơ đến Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương nếu hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh và trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan nêu trên sẽ có văn bản trả lời.
Anh Peter Nguyen là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam. Anh Peter theo phật giáo và trong thời gian cơ trú tại Việt Nam, anh muốn đăng ký học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam. Anh đề nghị cho biết, người nước ngoài có được học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam không?
Điều 49 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định như sau:
1. Người nước ngoài học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam phải là người cư trú hợp pháp ở Việt Nam, tuân thủ pháp luật Việt Nam, tự nguyện đăng ký học và được cơ sở đào tạo tôn giáo gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
2. Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ tên cơ sở đào tạo tôn giáo; họ và tên, quốc tịch của người đăng ký học, khóa học, thời gian học;
b) Bản dịch hộ chiếu của người đăng ký học sang tiếng Việt có công chứng.
c) Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
Như vậy, người nước ngoài được học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam nếu bảo đảm các yêu cầu như quy định tại khoản 1 nêu trên; đồng thời làm hồ sơ đề nghị được học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam gửi cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương để xem xét, chấp thuận.
Tổ chức tôn giáo NB được tổ chức tôn giáo ở nước ngoài mời một chức sắc tham gia hoạt động tôn giáo ở nước ngoài. Tổ chức tôn giáo NB phải xin phép cơ qua nào và trong thời hạn bao lâu thì có văn bản trả lời?
Điều 50 Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định về việc tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài như sau:
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi cử chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
2. Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức, mục đích, chương trình, thời gian, địa điểm hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài;
b) Giấy mời hoặc văn bản chấp thuận tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo của tổ chức tôn giáo ở nước ngoài.
3. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
Như vậy, Tổ chức tôn giáo NB trước khi cử chức sắc tham gia hoạt động tôn giáo ở nước ngoài có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.Cơ quan này sẽ trả lời bằng văn bản trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Tổ chức tôn giáo TG muốn phong phẩm cho một tín đồ là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Người này đã được đào tạo tôn giáo tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam và tuân thủ nghiêm túc pháp luật Việt Nam. Như vậy, tín đồ là người nước ngoài như giới thiệu ở trên đã bảo đảm điều kiện để được phong phẩm chưa? Pháp luật quy định vấn đề này như thế nào?
Điều 51 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài như sau:
1. Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài bao gồm các trường hợp sau đây:
a) Tổ chức tôn giáo Việt Nam phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam;
b) Tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho công dân Việt Nam ở Việt Nam.
2. Người được đề nghị phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được đề nghị phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị còn phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Được đào tạo tôn giáo tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam;
b) Tuân thủ pháp luật Việt Nam.
3. Việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài quy định tại khoản 1 nêu trên phải được sự chấp thuận trước của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
4. Công dân Việt Nam được tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử ở nước ngoài khi về Việt Nam làm chức sắc, chức việc thì tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc quản lý trực tiếp có trách nhiệm đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Như vậy, tổ chức tôn giáo TG cấn đối chiếu với các tiêu chuẩn của người được phong phẩm là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam theo quy định tại khoản 2 nêu trên để xem xét, phong phẩm cho tín đồ là người nước ngoài. Việc thực hiện bảo đảm theo quy định như trên.
Tổ chức tôn giáo K được tổ chức tôn giáo nước ngoài mời gia nhập. Qua xem xét toàn diện mọi vấn đề, tổ chức tôn giáo K chấp thuận và muốn gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài. Tổ chức tôn giáo K phải xin phép cơ quan nào và trong thời hạn bao lâu thì nhận được văn bản trả lời?
Điều 53 Luật Tín ngương, tôn giao quy định:
1. Trước khi gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
2. Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, mục đích, thời điểm gia nhập; tên, hiến chương, tôn chỉ, mục đích hoạt động, trụ sở chính của tổ chức tôn giáo nước ngoài;
b) Văn bản chấp thuận hoặc văn bản mời gia nhập của tổ chức tôn giáo nước ngoài.
3. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.
4. Khi chấm dứt tham gia tổ chức tôn giáo nước ngoài, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày chấm dứt.
Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, tên tổ chức tôn giáo nước ngoài đã gia nhập, lý do chấm dứt, thời điểm bắt đầu chấm dứt.
Như vậy, tổ chức tôn giáo K phải gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương; trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản.
Cơ sở tôn giáo V không phải là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Cơ sở tôn giáo V muốn cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong công trình tôn giáo. Về cơ bản,v iệc cải tạo, lắp đặt này không làm thay đổi kết cấu chịu lực, không làm thay đổi công năng sử dụng, không làm ảnh hưởng tới môi trường, an toàn công trình. Vậy việc cải tạo này có phải xin giấy phép xây dựng không?
Điều 16 Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo, công trình phụ trợ như sau:
1. Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo thực hiện như quy định của pháp luật về xây dựng đối với các công trình, nhà ở riêng lẻ xây dựng trong đô thị, trung tâm cụm xã, trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa, cách mạng.
2. Việc tu bổ, phục hồi cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng; việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc các cơ sở này thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật về xây dựng.
3. Khi cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo không phải là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng mà không làm thay đổi kết cấu chịu lực, không làm thay đổi công năng sử dụng, không làm ảnh hưởng tới môi trường, an toàn công trình thì được miễn giấy phép xây dựng.
Như vậy, nếu cơ sở tôn giáo V cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong công trình mà không làm thay đổi kết cấu chịu lực, không làm thay đổi công năng sử dụng, không làm ảnh hưởng tới môi trường, an toàn công trình thì được miễn giấy phép xây dựng./.