Tìm kiếm tin tức

 

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Thống kê lượt truy cập
Tổng truy cập 3.576.239
Truy cập hiện tại 9.011
Quy định việc tiếp nhận và tổ chức thực hiện giám định tư pháp (Phần 1)
Ngày cập nhật 31/10/2022

Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định. Việc giám định tư pháp thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật về giám định tư pháp.

Cá nhân, tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận và thực hiện giám định tư pháp theo quy định của Luật Giám định tư pháp 2012 được sửa đổi, bổ sung năm 2020 và quy định khác của pháp luật có liên quan.

1. Cá nhân, tổ chức tiếp nhận và thực hiện giám định tư pháp

Cá nhân, tổ chức giám định tư pháp bao gồm giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp công lập, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc.[1]

1.1 Tổ chức giám định tư pháp công lập[2]

- Tổ chức giám định tư pháp công lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự.

+ Tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y bao gồm: Viện pháp y quốc gia thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y cấp tỉnh; Viện pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng; Trung tâm giám định pháp y thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ Công an.

+ Tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y tâm thần bao gồm: Viện pháp y tâm thần trung ương thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế;

+ Tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự bao gồm: Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh; Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng; Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Tổ chức giám định tư pháp công lập có con dấu và tài khoản riêng theo quy định của pháp luật.

1.2 Tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập[3]

- Văn phòng giám định tư pháp là tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập, được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di vật, bản quyền tác giả. Văn phòng giám định tư pháp do 01 giám định viên tư pháp thành lập thì được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Văn phòng giám định tư pháp do 02 giám định viên tư pháp trở lên thành lập thì được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng giám định tư pháp là Trưởng văn phòng. Trưởng văn phòng giám định tư pháp phải là giám định viên tư pháp.

1.3 Người giám định tư pháp theo vụ việc[4]

Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có đủ tiêu chuẩn sau đây có thể được lựa chọn làm người giám định tư pháp theo vụ việc: Có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt; Có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên.

Trong trường hợp người không có trình độ đại học nhưng có kiến thức chuyên sâu và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực cần giám định thì có thể được lựa chọn làm người giám định tư pháp theo vụ việc.

Người giám định tư pháp theo vụ việc thực hiện giám định theo trưng cầu, yêu cầu giám định theo quy định của Luật Giám định tư pháp. Người giám định tư pháp theo vụ việc có quyền và nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 2, 3, 6 và 7 Điều 11 của Luật Giám định tư pháp.

1.4 Tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc

 Tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc phải có đủ điều kiện sau đây: Có tư cách pháp nhân; Có hoạt động chuyên môn phù hợp với nội dung được trưng cầu, yêu cầu giám định; Có điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện giám định tư pháp.

Tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc thực hiện giám định theo trưng cầu, yêu cầu giám định theo quy định của Luật này. Người đứng đầu tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận và phân công người thực hiện giám định tư pháp.

Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ thực hiện giám định tư pháp theo trưng cầu của người trưng cầu giám định.

2. Trưng cầu giám định tư pháp

2.1. Người có thẩm quyền trưng cầu giám định tư pháp trong tố tụng hình sự[5]

- Thủ trưởng cơ quan điều tra hoặc Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra khi được phân công tiến hành việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự; Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng[6] và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa[7].

- Cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thẩm quyền trưng cầu giám định tư pháp[8] trong một số trường hợp phạm tội quả tang, vụ việc đơn giản...

2.2. Người có thẩm quyền trưng cầu giám định tư pháp trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính

Thẩm phán có thẩm quyền trưng cầu giám định theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết[9].

2.3 Quyết định trưng cầu giám định[10]

Người trưng cầu giám định quyết định trưng cầu giám định tư pháp bằng văn bản và trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra[11].

Trường hợp đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan không thể gửi kèm theo quyết định trưng cầu giám định thì người trưng cầu giám định có trách nhiệm làm thủ tục bàn giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.

Quyết định trưng cầu giám định phải có các nội dung sau đây:

- Tên cơ quan trưng cầu giám định; họ, tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định;

- Tên tổ chức; họ, tên người được trưng cầu giám định;

- Tóm tắt nội dung sự việc;

- Tên và đặc điểm của đối tượng cần giám định;

- Tên tài liệu, đồ vật có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có);

- Nội dung chuyên môn của vấn đề cần giám định;

- Ngày, tháng, năm trưng cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định tư pháp.

Trường hợp trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại thì quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ là trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại và lý do của việc giám định bổ sung hoặc giám định lại.

Trong trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trao đổi với cá nhân, tổ chức dự kiến được trưng cầu giám định và cơ quan có liên quan về nội dung trưng cầu, thời hạn giám định, thông tin, tài liệu, mẫu vật cần cho việc giám định và các vấn đề khác có liên quan (nếu có).

Trường hợp nội dung cần giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực, thuộc trách nhiệm của nhiều tổ chức thì người trưng cầu giám định phải tách riêng từng nội dung để trưng cầu tổ chức có chuyên môn phù hợp thực hiện giám định.

Trường hợp các nội dung giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên môn có quan hệ mật thiết với nhau, thuộc trách nhiệm của nhiều tổ chức mà việc tách riêng từng nội dung gây khó khăn cho việc thực hiện giám định, ảnh hưởng đến tính chính xác của kết quả giám định hoặc kéo dài thời gian giám định thì người trưng cầu giám định phải xác định được nội dung chính cần giám định để xác định tổ chức chủ trì và tổ chức phối hợp trong việc thực hiện giám định.

Tổ chức chủ trì có trách nhiệm làm đầu mối tổ chức triển khai việc giám định chung và thực hiện giám định phần nội dung chuyên môn của mình.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu giám định, tổ chức được trưng cầu giám định tư pháp phải có văn bản cử người giám định gửi người trưng cầu giám định; đối với tổ chức phối hợp thực hiện giám định thì còn phải gửi văn bản cử người giám định cho tổ chức chủ trì việc thực hiện giám định. Tổ chức chủ trì phải tổ chức ngay việc giám định sau khi nhận được văn bản cử người của tổ chức phối hợp thực hiện giám định. Việc giám định trong trường hợp này được thực hiện theo hình thức giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau quy định tại khoản 3 Điều 28 của Luật Giám định tư pháp.

Trường hợp phát sinh vướng mắc trong việc trưng cầu, phối hợp thực hiện giám định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ trì, phối hợp với tổ chức được trưng cầu để giải quyết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra

3. Quyền và nghĩa vụ của người trưng cầu giám định

3.1 Quyền của người trưng cầu giám định[12]

- Trưng cầu giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp công lập theo, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc thực hiện giám định (khoản 4 Điều 2 của Luật Giám định tư pháp);

Trong trường hợp đặc biệt, người trưng cầu giám định có thể trưng cầu cá nhân, tổ chức chuyên môn có đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật Giám định tư pháp không thuộc danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc đã công bố để thực hiện giám định nhưng phải nêu rõ lý do trong quyết định trưng cầu[13].

Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan trung ương đóng trên địa bàn cấp tỉnh có trách nhiệm giới thiệu cá nhân, tổ chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật Giám định tư pháp ngoài danh sách đã công bố để thực hiện giám định theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng[14] (đoạn 3 khoản 2 Điều 20 Luật Giám định tư pháp).

- Yêu cầu cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định trả kết luận giám định đúng nội dung và thời hạn đã yêu cầu;

- Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định.

3.2 Nghĩa vụ của người trưng cầu giám định[15]

- Xác định rõ nội dung, lĩnh vực hoặc chuyên ngành cần giám định trong vụ án, vụ việc đang giải quyết; lựa chọn cá nhân, tổ chức có năng lực, đủ điều kiện thực hiện giám định phù hợp với tính chất, nội dung cần giám định để ra quyết định trưng cầu giám định;

- Ra quyết định trưng cầu giám định bằng văn bản;

- Cung cấp kịp thời, đầy đủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu, mẫu vật có liên quan đến đối tượng, nội dung cần giám định theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp;

- Tạm ứng, thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định tư pháp;

- Thực hiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ người giám định tư pháp hoặc người thân thích của người giám định tư pháp khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người giám định tư pháp hoặc người thân thích của người giám định tư pháp bị đe dọa do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp.

4. Yêu cầu giám định tư pháp

Yêu cầu giám định là việc người có quyền theo quy định của pháp luật (Người yêu cầu giám định) tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận.

Người có quyền tự mình yêu cầu giám định bao gồm: đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo[16].

4.1 Quyền của người yêu cầu giám định tư pháp[17]

- Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do. Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.

- Yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trả kết luận giám định đúng thời hạn đã thỏa thuận và theo nội dung đã yêu cầu;

- Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định;

- Đề nghị Tòa án triệu tập người giám định tư pháp đã thực hiện giám định tham gia phiên tòa để giải thích, trình bày về kết luận giám định;

- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật Giám định tư pháp[18].

4.2 Nghĩa vụ của người yêu cầu giám định tư pháp[19]

- Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của người giám định tư pháp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu do mình cung cấp;

- Nộp tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi yêu cầu giám định; thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định.

Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.

5. Quyền và nghĩa vụ của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định tư pháp

5.1 Quyền và nghĩa vụ của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định tư pháp[20]

- Lựa chọn phương pháp cần thiết, phù hợp để tiến hành giám định theo nội dung yêu cầu giám định.

Phương pháp là tổng hợp các cách thức để một người tiến hành thực hiện một công việc cụ thể. Phương pháp thực hiện giám định do người giám định lựa chọn, có thể có phương pháp chung khi thực hiện giám định, có thể có phương pháp riêng phù hợp với từng lĩnh vực giám định. Khi thực hiện giám định một vụ việc cụ thể, người giám định tư pháp căn cứ nội dung vụ việc, đối tượng giám định, các nội dung cần giám định và các hướng dẫn của Bộ, ngành về quy chuẩn chuyên môn để xác định, lựa chọn phương pháp tiến hành giám định phù hợp thực hiện giám định đảm bảo kết quả giám định được chính xác.

- Sử dụng kết quả thực nghiệm, xét nghiệm bổ sung hoặc kết luận chuyên môn do cá nhân, tổ chức khác thực hiện nhằm phục vụ cho việc giám định

Thông thường mỗi nội dung giám định cần có nhiều nguồn thông tin liên quan mà mỗi người giám định không thể tự thực hiện, trong trường hợp này người giám định cần yêu cầu tổ chức, cá nhân khác có chuyên môn, có trang thiết bị phù hợp thực hiện một số thực nghiệm, xét nghiệm hoặc kết luận về một số chuyên môn liên quan để người giám định có thêm căn cứ cần thiết phục vụ việc xây dựng kết luận giám định của mình.

Ví dụ, trong một vụ giám định pháp y thương tích, hay giám định pháp y tâm thần, người giám định có thể yêu cầu đơn vị chuyên khoa thực hiện chụp (Xquang) một số bộ phận cơ thể và kết luận về tình trạng tổn thương các bộ phận đó để người giám định tổng hợp kết luận về tình trạng sức khỏe, mức độ tổn thương cơ thể của người được giám định; trong giám định về tài chính, thuế, người giám định có thể sử dụng kết luận thanh tra do đơn vị thanh tra trước đó đã kết luận một số vấn đề liên quan để kết luận giám định.

- Độc lập đưa ra kết luận giám định

Độc lập đưa ra kết luận giám định là tự mình bằng tư duy khoa học, kiến thức chuyên môn của mình, tham khảo các kết quả nghiên cứu, các tài liệu liên quan, người giám định đưa ra kết luận của mình mà không lệ thuộc ý chí chủ quan của người khác, kể cả trong trường hợp sử dụng tài liệu, kết luận của đơn vị chuyên môn liên quan.

- Đề nghị người trưng cầu giám định hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật khi có dấu hiệu bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân hoặc người thân thích do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp[21].

- Từ chối thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình[22].

-  Được bố trí vị trí phù hợp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa[23].

- Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định[24]

- Yêu cầu cơ quan trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định cung cấp tài liệu cần thiết cho việc kết luận[25].

- Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định[26].

- Ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận chung trong trường hợp giám định do tập thể giám định viên tiến hành[27].

Theo quy định tại Điều 28 Luật Giám định tư pháp thì “giám định tập thể là việc giám định do 02 người trở lên thực hiện”. Giám định tập thể gồm: Giám định tập thể về một lĩnh vực chuyên môn và giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau.

Trong trường hợp một nội dung giám định có từ 02 người giám định trở lên thực hiện, thì những người giám định ký vào bản kết luận giám định chung; nếu người giám định có ý kiến khác với những ý kiến của những người giám định khác, người đó có quyền ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm với ý kiến đó (khoản 3 Điều 28 Luật Giám định tư pháp).

5.2 Nghĩa vụ của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định tư pháp[28]

- Tuân thủ các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp

Nguyên tắc giám định tư pháp có tính chất soi sáng, định hướng xuyên suốt quá trình thực hiện giám định. Người giám định tư pháp phải quán triệt, tuân thủ triệt để 04 nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp quy định tại Điều 3 Luật Giám định tư pháp, gồm: i) Tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn và quy trình giám định; ii) Trung thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp thời; iii) Chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề trong phạm vi được yêu cầu; iv) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định.

Việc tuân thủ các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp là tiền đề quan trọng đảm bảo kết luận giám định tư pháp được kịp thời, chính xác, khách quan, đúng pháp luật.

- Thực hiện giám định theo đúng nội dung yêu cầu giám định

Nội dung yêu cầu giám định là những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, vụ việc được cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định thể hiện tại văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp. Việc thực hiện theo đúng nội dung yêu cầu giám định tư pháp là đảm bảo thực hiện chính xác, đầy đủ các nội dung cần giám định, tránh trường hợp giám định nội dung không được yêu cầu hay bỏ sót nội dung được yêu cầu. Người giám định tư pháp cần nghiên cứu cẩn trọng những nội dung yêu cầu giám định của văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định. Trong trường hợp cần thiết phải trao đổi, thảo luận với người trưng cầu, yêu cầu giám định để nắm bắt đầy đủ, chính xác nội dung yêu cầu giám định.

- Thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn yêu cầu; trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để thực hiện giám định thì phải thông báo kịp thời cho người trưng cầu, yêu cầu giám định biết

Thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn yêu cầu là khoảng thời gian từ khi tiếp nhận trưng cầu giám định đến khi trả kết luận giám định. Thời hạn giám định thể hiện dưới 02 hình thức: thời hạn giám định do pháp luật quy định và thời hạn giám định do người trưng cầu, yêu cầu giám định ấn định trong văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định.

- Lập hồ sơ giám định.

Hồ sơ giám định do người giám định tư pháp lập theo mẫu thống nhất do bộ, cơ quan ngang bộ hướng dẫn phù hợp với từng lĩnh vực giám định. Hồ sơ giám định tư pháp gồm đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 33 Luật Giám định tư pháp và được xuất trình khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

- Bảo quản mẫu vật giám định, tài liệu liên quan đến vụ việc giám định.

- Không được thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp được người đã trưng cầu, yêu cầu giám định đồng ý bằng văn bản.

- Chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình đưa ra. Trường hợp cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì còn phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.

- Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng[29].

Quan hệ của người giám định tư pháp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã trưng cầu giám định không chỉ diễn ra trong thời gian thực hiện giám định, trong trường hợp cần thiết khi đánh giá, sử dụng kết luận giám định cơ quan tiến có thẩm quyền hành tố tụng có thể triệu tập người giám định tư pháp để làm rõ nội dung kết luận giám định hoặc khi xét xử, Hội đồng xét xử thấy cần thiết triệu tập người giám định tư pháp tham gia phiên tòa để bổ sung hoặc giải thích kết luận giám định thì có thể triệu tập người giám định tư pháp đến phiên tòa. Trong các trường hợp nêu trên, khi được triệu tập, người giám định tư pháp có trách nhiệm chấp hành việc triệu tập đó và có mặt theo đúng thời gian được ghi trong giấy triệu tập.

- Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện giám định

Bí mật điều tra là nội dung các sự kiện, tài liệu thể hiện những thông tin liên quan trong vụ án hình sự do cơ quan điều tra có thẩm quyền xác lập, thu thập được phục vụ hoạt động chứng minh, giải quyết vụ việc (hồ sơ tố tụng). Khi thực hiện giám định, người giám định tư pháp được tiếp xúc với hồ sơ tố tụng để tìm hiểu những thông tin liên quan. Tuy nhiên, người giám định tư pháp chỉ được sử dụng những thông tin đó phục vụ việc giám định, kết luận giám định mà không được tiết lộ những thông tin đó cho người khác.

- Phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp: đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo; đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản trong vụ án đó; đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó (khoản 5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 thì thuật ngữ “thân thích” được hiểu là: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, dì ruột; cháu ruột của đương sự.

- Người giám định kết luận gian dối hoặc từ chối kết luận giám định mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự (khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

6. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp

6.1 Quyền của tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp[30]

- Yêu cầu người trưng cầu, người yêu cầu giám định cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin, tài liệu, mẫu vật cần thiết cho việc giám định.

- Từ chối tiếp nhận trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp trong trường hợp nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định không phù hợp với phạm vi chuyên môn hoặc không có đủ năng lực, điều kiện cần thiết cho việc thực hiện giám định; đối tượng giám định, tài liệu liên quan được cung cấp không đầy đủ hoặc không có giá trị để kết luận giám định tư pháp sau khi đã đề nghị người trưng cầu, người yêu cầu giám định bổ sung, làm rõ nhưng không được đáp ứng; thời gian không đủ để thực hiện giám định; tính độc lập, khách quan của việc thực hiện giám định không được bảo đảm.

- Được nhận tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi nhận trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp; được thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định tư pháp khi trả kết quả giám định.

6.2 Nghĩa vụ của tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp[31]

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp, phải phân công người có trình độ chuyên môn, khả năng nghiệp vụ phù hợp với nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định, chịu trách nhiệm về năng lực chuyên môn của người đó và thông báo cho người trưng cầu, người yêu cầu giám định, trừ trường hợp pháp luật quy định thời hạn ngắn hơn.

Người đứng đầu tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định có trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc việc tổ chức thực hiện giám định, trường hợp cần có từ 02 người trở lên thực hiện vụ việc giám định thì phải phân công người chịu trách nhiệm điều phối việc thực hiện giám định;

- Bảo đảm thời gian, trang thiết bị, phương tiện và các điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện giám định

Trong quá trình thực hiện giám định, nếu có nội dung mới hoặc vấn đề khác phát sinh thì cá nhân, tổ chức thực hiện giám định phải thông báo ngay bằng văn bản cho người trưng cầu, người yêu cầu giám định biết để thống nhất phương án giải quyết;

- Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người thực hiện giám định do mình phân công cố ý kết luận giám định sai, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.

- Trường hợp từ chối tiếp nhận trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp thì phải thông báo cho người trưng cầu, người yêu cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định, trừ trường hợp pháp luật quy định thời hạn ngắn hơn.

- Chịu trách nhiệm về kết luận giám định tư pháp do mình đưa ra.

7. Thời hạn giám định trong trường hợp trưng cầu giám định [32]

Thời hạn giám định tư pháp được tính từ ngày cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định và kèm theo đầy đủ hồ sơ, đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật, mẫu vật cần thiết cho việc giám định.

Trong quá trình thực hiện giám định, trường hợp cần phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu làm cơ sở cho việc giám định thì cá nhân, tổ chức được trưng cầu có văn bản đề nghị người đã trưng cầu giám định bổ sung hồ sơ, tài liệu. Thời gian từ khi cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định có văn bản đề nghị đến khi nhận được hồ sơ, tài liệu bổ sung không tính vào thời hạn giám định.

7.1 Thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tư pháp

Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã quy định về thời hạn giám định đối với một số trường hợp giám định cụ thể như sau:

- Không quá 03 tháng đối với trường hợp giám định về: Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án[33].

- Không quá 01 tháng đối với trường hợp giám định về: nguyên nhân chết người; mức độ ô nhiễm môi trường [34].

- Không quá 09 ngày đối với trường hợp giám định về: Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ [35].

7.2 Thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp không thuộc các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định

Theo quy định của Điều 26a Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp[36] thì: Thời hạn giám định tối đa là 03 tháng. Trường hợp vụ việc giám định có tính chất phức tạp hoặc khối lượng công việc lớn thì thời hạn giám định tối đa là 04 tháng.

Bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp căn cứ vào thời hạn giám định tối đa và tính chất chuyên môn của lĩnh vực giám định quy định thời hạn giám định tư pháp cho từng loại việc cụ thể. Thời hạn giám định tư pháp có thể được gia hạn theo quyết định của cơ quan trưng cầu giám định nhưng không quá một phần hai thời hạn giám định tối đa đối với loại việc đó.

7.3 Người trưng cầu giám định có thể thống nhất về thời hạn giám định với cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định trước khi trưng cầu giám định tư pháp nhưng không được vượt quá thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 26a Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

7.4 Trường hợp có vấn đề phát sinh hoặc có cơ sở cho rằng vụ việc giám định không thể hoàn thành đúng thời hạn thì cá nhân, tổ chức thực hiện giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho người trưng cầu giám định và thời gian dự kiến hoàn thành, ra kết luận giám định.

8. Các trường hợp không được thực hiện giám định tư pháp[37]

- Người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được thực hiện giám định tư pháp:

+ Thuộc một trong các trường hợp mà pháp luật về tố tụng quy định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi;

+ Được trưng cầu giám định lại về cùng một nội dung trong vụ án, vụ việc mà mình đã thực hiện giám định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Tổ chức thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được thực hiện giám định tư pháp:

+ Có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng;

+ Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng tổ chức này có thể không khách quan, vô tư trong khi thực hiện giám định.

9. Các hình thức giám định tư pháp[38]

Theo quy định của Luật Giám định tư pháp thì hình thức giám định tư pháp bao gồm: i) giám định cá nhân; ii) giám định tập thể (bao gồm cả giám định hội đồng); iii) giám định lần đầu, giám định lại và giám định bổ sung.

9.1 Giám định cá nhân

Giám định cá nhân là việc giám định do 01 người thực hiện.

Trong trường hợp giám định cá nhân thì người giám định thực hiện việc giám định, ký vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định đó.

9.2 Giám định tập thể

Giám định tập thể là giám định do 02 người trở lên thực hiện, giám định tập thể có 02 hình thức thể hiện là: giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau và giám định tập thể về một lĩnh vực chuyên môn.

Trong trường hợp giám định tập thể về một lĩnh vực chuyên môn thì những người giám định cùng thực hiện việc giám định, ký vào bản kết luận giám định chung và cùng chịu trách nhiệm về kết luận giám định đó; nếu có ý kiến khác thì giám định viên ghi ý kiến của mình vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm về ý kiến đó.

Trường hợp giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người giám định thực hiện phần việc giám định thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình và chịu trách nhiệm cá nhân về phần kết luận giám định đó.

9.3 Giám định lần đầu

Luật Giám định tư pháp không có khái niệm cụ thể về giám định lần đầu, tuy nhiên, thực tiễn có thể hiểu giám định lần đầu là đối với 01 nội dung giám định trong  vụ việc cụ thể mà lần đầu tiên được trưng cầu, yêu cầu giám định và cá nhân, tổ chức được trưng cầu/yêu cầu giám định đã có kết luận giám định đối với nội dung được trưng cầu/yêu cầu.

9.4 Giám định bổ sung

Việc giám định bổ sung được thực hiện trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ án, vụ việc đã được kết luận giám định trước đó. Việc trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu. Quyết định trưng cầu giám định bổ sung/văn bản yêu cầu giám định bổ sung phải ghi rõ trưng cầu/yêu cầu giám định bổ sung và lý do việc trưng cầu/yêu cầu giám định bổ sung (khoản 3 Điều 25 Luật Giám định tư pháp, khoản 3 Điều 210 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

Việc giám định bổ sung có thể do tổ chức cá nhân đã giám định hoặc do tổ chức, cá nhân khác thực hiện (khoản 2 Điều 210 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

9.5 Giám định lại

Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ/nghi ngờ[39] cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác hoặc trong trường hợp đặc biệt do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật Giám định tư pháp.

Người trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người yêu cầu giám định quyết định việc trưng cầu giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Quyết định trưng cầu giám định lại/văn bản yêu cầu giám định lại phải ghi rõ trưng cầu/yêu cầu giám định lại và lý do việc trưng cầu/yêu cầu giám định lại.

9.6 Hội đồng giám định

- Hội đồng giám định do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập để thực hiện giám định lại trong 02 trường hợp:

+ Hội đồng giám định lại (lần thứ hai) trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định theo yêu cầu của người trưng cầu giám định.

+ Hội đồng giám định lại trong trường hợp đặc biệt theo quyết định việc giám định lại của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định (theo quy định của khoản 2 Điều 30 Luật Giám định tư pháp).  

- Hội đồng giám định gồm có ít nhất 03 thành viên là những người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể.

10. Yêu cầu giám định tư pháp trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, vụ án hình sự[40]

10.1 Người yêu cầu giám định phải gửi văn bản yêu cầu giám định kèm theo đối tượng giám định, các tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) và bản sao giấy tờ chứng minh mình là đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.

10.2 Văn bản yêu cầu giám định tư pháp phải có các nội dung sau đây:

- Tên tổ chức hoặc họ, tên người yêu cầu giám định;

- Nội dung yêu cầu giám định;

- Tên và đặc điểm của đối tượng giám định;

- Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có);

- Ngày, tháng, năm yêu cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định;

- Chữ ký, họ, tên người yêu cầu giám định.

11. Nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp[41]

Nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp là những quy tắc chung được quy định trong Luật Giám định tư pháp (Điều 3), là những định hướng, chỉ đạo xuyên suốt quá trình thực hiện giám định mà người thực hiện giám định phải tuân theo.

Việc quy định các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp thể hiện yêu cầu trách nhiệm cao đối với người giám định trước pháp luật trong việc cung cấp nguồn chứng cứ khoa học cho hoạt động tố tụng.

11.1 Tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn và quy trình giám định[42]

- Tuân thủ pháp luật

Quy định này yêu cầu người giám định tư pháp thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đã được pháp luật quy định trong suốt quá trình từ giai đoạn tiếp nhận trưng cầu, yêu cầu giám định, thực hiện giám định, xây dựng bản kết luận giám định đến việc trả kết luận giám định và những hoạt động liên quan khác.

- Tuân theo quy chuẩn chuyên môn và quy trình giám định

Quy chuẩn chuyên môn là tổng hợp của quy trình và tiêu chuẩn khoa học được cơ quan có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật, là căn cứ pháp lý để người giám định tư pháp thực hiện và kết luận giám định. Mỗi lĩnh vực giám định có quy chuẩn chuyên môn riêng, do cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc hướng dẫn áp dụng. Tuân theo quy chuẩn chuyên môn là yêu cầu đối với người thực hiện giám định tư pháp phải thực hiện đầy đủ, chính xác về trình tự, thủ tục thực hiện giám định cũng như việc áp dụng tiêu chuẩn khi kết luận giám định. Ví dụ:

+ Bộ trưởng Bộ Y tế đã có Thông tư số 47/2013/TT-BYT ngày 31/12/2013 về quy trình giám định pháp y, theo đó ban hành: 54 quy trình giám định pháp y, 29 quy trình giám định hóa pháp và 10 quy trình giám định AND.

+ Bộ trưởng Bộ Y tế đã có Thông tư số 23/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 ban hành quy trình giám định pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong giám định pháp y tâm thần (thay thế Thông tư số 18/2015/TT-BYT ngày 14/7/2015); Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019  của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định  tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần (thay thế Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014).

+ Bộ trưởng Bộ Công an đã có Thông tư số 33/2021/TT-BCA ngày 29/3/2021 ban hành 34 quy trình giám định kỹ thuật hình sự và Thông tư số 01/2021 ngày 01/01/2022  ban hành 17 quy trình giám định kỹ thuật hình sự (02 Thông tư này thay thế 03 Thông tư: Thông tư số 52/2011/TT-BCA ngày 20/7/2011, Thông tư số 46/2013/TT-BCA ngày 5/11/2013 và Thông tư số 51/2015/TT-BCA ngày 13/10/2015).

Quy chuẩn chuyên môn ở các lĩnh vực giám định khác (tài chính, ngân hàng, tiền tệ…), do đặc thù việc giám định tư pháp chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật hoặc văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm xảy ra sự việc nên không nhất thiết ban hành quy chuẩn chuyên môn riêng cho hoạt  động giám định. Vì vậy, Luật Giám định tư pháp (điểm b khoản 1 Điều 41) có quy định “tùy nghi” để cơ quan có thẩm quyền (Bộ, ngành chủ quản) có thể hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn “kinh tế - kỹ thuật”, “chuẩn mực”… sẵn có phù hợp với đặc thù của lĩnh vực để áp dụng khi thực hiện giám định. Ví dụ: Điều 11 Thông tư số 138/2013/TT-BTC ngày 9/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung của Luật Giám định tư pháp và Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp quy định việc áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định trong lĩnh vực tài chính, cụ thể như sau:

+ Quy chuẩn chuyên môn được áp dụng cho hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực tài chính là các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán; tiêu chuẩn về thẩm định giá, quy chế tính giá và các chuẩn mực, tiêu chuẩn khác được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính.

+ Đối với lĩnh vực không có quy chuẩn thì việc giám định được căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định về lĩnh vực cần giám định.

+ Việc giám định trong lĩnh vực tài chính phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành vào thời điểm xảy ra vụ việc.

Tương tự như vậy, các bộ, ngành khác đều có quy định việc áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp thuộc lĩnh vực quản lý tại Thông tư hướng dẫn Luật Giám định tư pháp của Bộ, ngành đó [43].

11.2 Trung thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp thời

- Trung thực:

Trung thực trong thực hiện giám định tư pháp là yêu cầu quan trọng đòi hỏi người giám định tư pháp chỉ căn cứ những tình tiết, nội dung tài liệu có thật để tiến hành thực hiện giám định, không tự suy diễn theo ý chí chủ quan của mình khi áp dụng quy định pháp luật.

- Khách quan, vô tư:

Khách quan là những sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài ý chỉ chủ quan của con người, trong giám định tư pháp thể hiện từ việc tìm hiểu nội dung cần giám định, thu thập dấu vết, tài liệu… phục vụ việc thực hiện giám định.

Vô tư là yêu cầu người giám định tư pháp không vì muốn hay không muốn một chi tiết, nội dung cụ thể nào đó mà chi phối đến suy nghĩ trong hoạt động chuyên môn, thể hiện sự “độc lập” không bị chi phối bởi những yếu tố lợi ích vật chất, phi vật chất trong hoạt động giám định.

- Chính xác, kịp thời:

Chính xác là yêu cầu rất cơ bản trong hoạt động giám định tư pháp, đòi hỏi sự tỉ mỉ trong tiếp nhận nội dung giám định, thu thập, nghiên cứu tài liệu, đánh giá tổng hợp một cách khoa học của người giám định tư pháp.

Kịp thời thể hiện ở 02 khía cạnh, một mặt cần tiến hành giám định ngay khi tiếp nhận hoặc được phân công giám định, tránh sự biến đổi tự nhiên của đối tượng giám định (trong giám định pháp y thương tích, một số chuyên ngành trong giám định kỹ thuật hình sự…); mặt khác, thể hiện việc kết luận, trả kết luận giám định theo đúng thời hạn mà pháp luật quy định hoặc thời hạn thỏa thuận với người yêu cầu giám định.

11.3 Chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề trong phạm vi được yêu cầu

Đối với người giám định, để phân biệt một cách rõ ràng “phạm vi chuyên môn được yêu cầu” đối với một vụ việc giám định cụ thể là khá phức tạp, trong nhiều trường hợp nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định có sự “đan xen” đòi hỏi người giám định nắm rõ nội dung cần giám định, từ đó xem xét để áp dụng chính xác yêu cầu của nguyên tắc này đối với lĩnh vực giám định mà mình thực hiện. Ngoài ra, nguyên tắc này đòi hỏi sự phối hợp tuân thủ của cả người trưng cầu giám định và người thực hiện giám định.

Trước hết, người trưng cầu phải quán triệt sự cần thiết phải trưng cầu giám định theo quy định của pháp luật, xác định rõ nội dung, lĩnh vực hoặc chuyên môn cần giám định trong vụ án, vụ việc đang giải quyết để xác định cá nhân, tổ chức giám định phù hợp để trưng cầu giám định, không yêu cầu giám định ngoài phạm vi chuyên môn giám định cũng như những vấn đề về pháp lý.

Ví dụ: yêu cầu xác định công ty X có vi phạm pháp luật về thuế và có phạm tội trốn thuế tại thời điểm đó không? hay yêu cầu xác định người đó có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi Z không...

Trong trường hợp xác định quyết định trưng cầu giám định có nội dung yêu cầu giám định không thuộc phạm vi chuyên môn của tổ chức giám định, người giám định thì tổ chức giám định, người giám định có văn bản thông báo kịp thời cho cơ quan trưng cầu, người trưng cầu giám định biết để cơ quan trưng cầu thực hiện việc trưng cầu đối với tổ chức, cá nhân khác thực hiện giám định.

11.4 Chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định

Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Giám định tư pháp thì: “kết luận giám định tư pháp là nhận xét, đánh giá bằng văn bản của người giám định tư pháp về đối tượng giám định theo nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định...”. Kết luận giám định là nguồn chứng cứ khoa học, quan trọng có ảnh hưởng đến quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính và vụ việc dân sự. Vì vậy, quy định nguyên tắc bắt buộc người giám định tư pháp chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định là cần thiết, bảo đảm tính minh bạch cũng như tăng cường hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp, đáp ứng yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng và nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong quan hệ kinh tế, dân sự...

12. Các hành vi bị nghiêm cấm [44]

12.1 Từ chối đưa ra kết luận giám định tư pháp mà không có lý do chính đáng

Kết luận giám định là một trong các nguồn chứng cứ quan trọng giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, vụ việc được chính xác, khách quan, nhất là các vụ án việc trưng cầu giám định là bắt buộc theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 hoặc vụ án mà kết luận giám định là căn cứ duy nhất để chứng minh tội phạm. Trong giải quyết một vụ án, khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã có quyết định trưng cầu giám định thì bắt buộc trong tài liệu hồ sơ phải có kết luận giám định tư pháp. Để đảm bảo không xảy ra tình trạng thiếu kết luận giám định gây ách tắc trong giải quyết vụ án. Luật Giám định tư pháp có quy định cấm người giám định tư pháp từ chối đưa ra kết luận giám định tư pháp mà không có lý do chính đáng.

12.2 Cố ý đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật.

Cố ý là việc một người mặc dù biết rõ việc làm là vi phạm pháp luật, gây hậu quả xấu nhưng cố tình thực hiện bất chấp hậu quả xảy ra. Kết luận giám định tư pháp là nguồn chứng cứ khoa học, có tính khách quan đáng tin cậy để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sử dụng trong việc giải quyết vụ án, vụ việc chính xác, đúng pháp luật.

Hành vi cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật sẽ dẫn đến hậu quả làm sai lệch kết quả hoạt động tố tụng, bất luận với động cơ, mục đích gì đều làm phương hại đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức liên quan.

12.3 Cố ý kéo dài thời gian thực hiện giám định tư pháp hoặc lợi dụng việc trưng cầu, yêu cầu giám định để gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng.

Thời hạn giám định là khoảng thời gian cần thiết để hoàn thành việc giám định. Thời hạn giám định do pháp luật quy định hoặc được ghi trong quyết định trưng cầu giám định, trong trường hợp đương sự yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật thì thời hạn do người giám định và người yêu cầu giám định thỏa thuận.

Luật Giám định tư pháp quy định nghĩa vụ của người giám định tư pháp là: thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn yêu cầu; trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để thực hiện giám định thì phải thông báo kịp thời cho người trưng cầu, yêu cầu giám định biết” (điểm c khoản 2 Điều 23 Luật Giám định tư pháp). Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 một mặt quy định cụ thể về thời hạn giám định đối với các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định (khoản 1 Điều 208); mặt khác cũng ghi nhận “Thời hạn giám định đối với các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định” (khoản 2 Điều 208); đồng thời khoản 3 Điều 208 cũng quy định “Trường hợp việc giám định không thể tiến hành trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định”. Hành vi cố ý kéo dài thời gian thực hiện giám định là việc cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp cố tình nại ra những lý do không chính đáng để trì hoãn việc trả kết luận giám định gây khó khăn cho cá nhân, tổ chức, cản trở hoạt động tố tụng.

12.4 Lợi dụng việc thực hiện giám định tư pháp để trục lợi.

Trong quá trình thực hiện giám định tư pháp, do yêu cầu công tác, người giám định có nhiều quan hệ, tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau, tiếp cận nhiều kênh thông tin khác nhau phục vụ hoạt động giám định. Quy định này nhằm ngăn chặn người giám định lợi dụng các mối quan hệ với người tiến hành tố tụng, những người liên quan khác hoặc sử dụng thông tin, tài liệu được tiếp xúc trong quá trình thực hiện giám định để thực hiện hành vi gian dối đối với những cá nhân, tổ chức liên quan nhằm hưởng lợi bất chính.

12.5 Tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết được khi tiến hành giám định tư pháp.

Để thực hiện giám định, người giám định phải xem xét, đánh giá trực tiếp đối tượng cần giám định, sử dụng các thông tin của tài liệu liên quan trong hồ sơ trưng cầu, yêu cầu giám định do người trưng cầu, yêu cầu giám định cung cấp hoặc các kết luận chuyên môn có liên quan của cá nhân, tổ chức khác. Người giám định chỉ được sử dụng những thông tin này phục vụ hoạt động giám định của mình mà không thể tiết lộ dù bất cứ lý do nào.

12.6 Xúi giục, ép buộc người giám định tư pháp đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật.

Xúi giục là việc một người có hành vi tác động để người giám định tư pháp đưa ra kết luận không đúng sự thật.

Ép buộc là việc một người dùng lợi ích vật chất, phi vật chất… làm cho người giám định tư pháp lệ thuộc ý chí của mình, từ đó yêu cầu người giám định tư pháp đưa ra kết luận giám định tư pháp không đúng sự thật.  

Người giám định tư pháp có quyền“độc lập khi đưa ra kết luận giám định” (điểm c khoản 1 Điều 23 Luật Giám định tư pháp). Vì vậy, pháp luật nghiêm cấm hành vi xúi giục, ép buộc người giám định tư pháp đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật, đây cũng là một trong các “công cụ”, đảm bảo kết luận giám định được đưa ra một cách khách quan.

12.7 Can thiệp, cản trở việc thực hiện giám định của người giám định tư pháp.

Người thực hiện giám định có nghĩa vụ tuân thủ trình tự, thủ tục, phương pháp  thực hiện giám định và áp dụng quy chuẩn chuyên môn theo quy định của pháp luật.

Can thiệp, cản trở là việc một người lợi dụng ảnh hưởng của mình hoặc dùng thủ đoạn khác để yêu cầu người giám định làm theo ý chí chủ quan của mình hoặc có hành vi khác gây khó khăn cho người giám định tư pháp, làm cho người giám định tư pháp không thể thực hiện đầy đủ quyền của mình trong quá trình thực hiện giám định tư pháp.

13. Giao nhận hồ sơ, đối tượng trưng cầu, yêu cầu giám định[45] và văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định tư pháp[46]

13.1 Giao nhận hồ sơ, đối tượng trưng cầu, yêu cầu giám định

- Hồ sơ, đối tượng trưng cầu, yêu cầu giám định được giao, nhận trực tiếp hoặc gửi cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định qua đường bưu chính.

- Việc giao, nhận trực tiếp hồ sơ, đối tượng trưng cầu, yêu cầu giám định phải được lập thành biên bản. Biên bản giao, nhận phải có nội dung sau đây:

+ Thời gian, địa điểm giao, nhận hồ sơ giám định;

+ Họ, tên người đại diện của bên giao và bên nhận đối tượng giám định;

+ Quyết định trưng cầu hoặc văn bản yêu cầu giám định; đối tượng cần giám định; tài liệu, đồ vật có liên quan;

+ Cách thức bảo quản đối tượng giám định, tài liệu, đồ vật có liên quan khi giao, nhận;

+ Tình trạng đối tượng giám định, tài liệu, đồ vật có liên quan khi giao, nhận;

+ Chữ ký của người đại diện bên giao và bên nhận đối tượng giám định.

- Việc gửi hồ sơ, đối tượng trưng cầu, yêu cầu giám định qua đường bưu chính phải được thực hiện theo hình thức gửi dịch vụ có số hiệu. Cá nhân, tổ chức nhận hồ sơ được gửi theo dịch vụ có số hiệu có trách nhiệm bảo quản, khi mở niêm  phong phải lập biên bản theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Giám định tư pháp.

- Đối với việc giao, nhận đối tượng giám định pháp y, pháp y tâm thần là con người thì người trưng cầu, yêu cầu giám định có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định quản lý đối tượng giám định trong quá trình thực hiện giám định.

- Khi việc thực hiện giám định hoàn thành, cá nhân, tổ chức thực hiện giám định có trách nhiệm giao lại đối tượng giám định cho người trưng cầu, yêu cầu giám định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Người trưng cầu, yêu cầu giám định có trách nhiệm nhận lại đối tượng giám định theo quy định của pháp luật.

Việc giao, nhận lại đối tượng giám định sau khi việc giám định đã hoàn thành được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 Luật Giám định tư pháp.

13.2 Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định tư pháp

- Người thực hiện giám định tư pháp phải ghi nhận kịp thời, đầy đủ, trung thực bằng văn bản toàn bộ quá trình thực hiện vụ việc giám định.

- Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định tư pháp nêu rõ tình trạng đối tượng gửi giám định và thông tin, tài liệu có liên quan gửi kèm theo làm căn cứ để thực hiện giám định, thời gian, địa điểm, nội dung công việc, tiến độ, phương pháp thực hiện giám định, kết quả thực hiện và phải có chữ ký của người giám định tư pháp.

Văn bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định tư pháp phải được lưu trong hồ sơ giám định.

14. Kết luận giám định tư pháp; việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp

14.1 Kết luận giám định tư pháp

Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Giám định tư pháp[47], Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự  2015  thì: Kết luận giám định tư pháp là nhận xét, đánh giá bằng văn bản của người giám định tư pháp về đối tượng giám định theo nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân kết luận về vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó.

Kết luận giám định tư pháp phải có các nội dung sau đây:

- Họ, tên người thực hiện giám định; tổ chức thực hiện giám định;

- Tên cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; họ, tên người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định tư pháp; số văn bản trưng cầu giám định hoặc họ, tên người yêu cầu giám định;

- Thông tin xác định đối tượng giám định;

- Thời gian nhận văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định;       

- Nội dung yêu cầu giám định;

- Phương pháp thực hiện giám định;

- Kết luận rõ ràng, cụ thể về nội dung chuyên môn của đối tượng cần giám định theo trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp;

- Thời gian, địa điểm thực hiện, hoàn thành việc giám định.

14.2 Việc ký kết luận giám định tư pháp

Theo quy định tại Điều 28, khoản 2 Điều 32 Luật Giám định tư pháp[48], khoản 2 Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì việc ký Kết luận giám định tư pháp thực hiện cụ thể như sau:

- Trường hợp trưng cầu, yêu cầu cá nhân thực hiện giám định tư pháp thì bản kết luận giám định tư pháp phải có chữ ký và ghi rõ họ, tên của người thực hiện giám định tư pháp.

- Trường hợp yêu cầu tổ chức cử người giám định thì bản kết luận giám định tư pháp phải có đầy đủ chữ ký, ghi rõ họ, tên của người giám định tư pháp và có xác nhận chữ ký của tổ chức cử người giám định.

Nếu việc giám định tập thể về một lĩnh vực chuyên môn thì những người giám định cùng thực hiện giám định ký vào bản kết luận giám định chung và cùng chịu trách nhiệm về kết luận giám định đó; nếu có có ý kiến khác thì giám định viên ghi ý kiến của mình vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm về ý kiến đó.

Trường hợp giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì mỗi người giám định thực hiện phần việc giám định  thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình và chịu trách nhiệm cá nhân về phần kết luận giám định đó.

- Trường hợp trưng cầu, yêu cầu tổ chức thực hiện giám định tư pháp thì ngoài chữ ký, họ, tên của người giám định, người đứng đầu tổ chức còn phải ký tên, đóng dấu vào bản kết luận giám định tư pháp và tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định phải chịu trách nhiệm về kết luận giám định tư pháp.

- Trường hợp Hội đồng giám định theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật Giám định tư pháp thực hiện giám định thì người có thẩm quyền quyết định thành lập Hội đồng phải ký tên, đóng dấu vào bản kết luận giám định tư pháp và chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của Hội đồng giám định.

14.3 Giá trị pháp lý của kết luận giám định tư pháp

- Kết luận giám định tư pháp là nguồn chứng cứ khoa học, là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền chứng minh sự thật khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ việc dân sự, vụ án hành chính (điểm d khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự  2015, khoản 5 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và khoản 5 Điều 81 Luật Tố tụng hành chính 2015).

- Trong trường hợp việc giám định được thực hiện trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, theo đúng trình tự, thủ tục do Luật Giám định tư pháp quy định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể sử dụng kết luận giám định đó như kết luận giám định tư pháp (khoản 3 Điều 32 Luật Giám định tư pháp).

14.4 Đánh giá, sử dụng kết luận giám định tư pháp

Kết luận giám định là văn bản do cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp lập, là một trong các nguồn chứng cứ.

Theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì: Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án. Như vậy, việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc.

Luật Giám định tư pháp quy định Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm đánh giá việc thực hiện giám định và sử dụng kết luận giám định tư pháp trong hệ thống cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát và hệ thống tòa án thuộc thẩm quyền quản lý[49] thể hiện tính “cộng đồng” trách nhiệm đối với sự phát triển của công tác giám định tư pháp.  

14.5 Giải quyết mâu thuẫn trong trường hợp có nhiều kết luận giám định về cùng một nội dung giám định

Thực tiễn hoạt động tố tụng những năm qua nảy sinh trường hợp trong cùng một nội dung có nhiều kết luận giám định nhưng lại không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc sử dụng kết luận giám định nào làm căn cứ khi giải quyết vụ án, bảo đảm sự khách quan, chính xác, đúng pháp luật. Từ đó, có ý kiến đề nghị Luật Giám định tư pháp cần thiết lập "cơ chế" làm căn cứ để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (cơ quan trưng cầu giám định) quyết định sử dụng kết luận giám định nào trong số các kết luận đó.

Tuy nhiên, về bản chất hoạt động giám định tư pháp là hoạt động cung cấp ý kiến của chuyên gia về nội dung, phạm vi vấn đề được yêu cầu. Kết luận giám định tư pháp là văn bản mang tính chuyên môn, khoa học, không phân biệt kết luận của cá nhân người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp hay kết luận của Hội đồng giám định. Mỗi kết luận giám định đều là một trong những nguồn chứng cứ được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, đánh giá một cách bình đẳng với các chứng cứ khác khi giải quyết vụ án. Vì vậy, Luật Giám định tư pháp không đặt vấn đề kết luận của tổ chức giám định tư pháp, Hội đồng giám định “cấp trên” có giá trị hơn kết luận của tổ chức giám định tư pháp, Hội đồng giám định “cấp dưới” để bảo đảm sự khách quan, độc lập của hoạt động giám định; đồng thời không đặt ra yêu cầu xác định “kết luận giám định cuối cùng”.

Để tránh trường hợp vì có sự mâu thuẫn giữa các kết luận giám định mà kéo dài thời gian giải quyết vụ án, khoản 1 Điều 30 Luật Giám định tư pháp đã thiết lập cơ chế “giám định hội đồng” để thực hiện giám định lại lần thứ 2 đối với kết luận giám định lại (lần thứ nhất) trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định (lần đầu) và kết luận giám định lại lần thứ nhất; khoản 2 Điều 30 Luật Giám định tư pháp quy định có tính chất định hướng là: sau khi có kết luận giám định của Hội đồng giám định, việc giám định lại (lần nữa) là trường hợp đặc biệt và chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới có quyền quyết định việc giám định lại.

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, tuy không trực tiếp quy định kết luận giám định nào là kết luận cuối cùng nhưng xác định kết luận giám định lại (lần 2) do Hội đồng giám định thực hiện trong trường hợp đặc biệt được sử dụng để giải quyết vụ án. Điều 212 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định. Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án”.

Như vậy, có thể hiểu là kết luận giám định tư pháp của Hội đồng giám định trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật Giám định tư pháp là “kết luận giám định cuối cùng”.

 


[1] Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật giám định tư pháp.

[2] Theo quy định tại Điều 12 Luật giám định tư pháp được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 8 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp

 

[3] Theo quy định tại Điều 14 Luật giám định tư pháp.

 

[4] Theo quy định tại Điều 18, Điều 19, Điều 20 Luật giám định tư pháp.

 

[5]. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật giám định tư pháp; điểm d khoản 2, khoản 3 Điều 36 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[6]. Quy định tại  điểm đ khoản 2, khoản 3 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[7]. Quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 45 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[8]. Các điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 35 và khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 của các điều từ Điều 32 đến Điều 36 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015.

[9]. Theo quy định tại Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Điều 89 Luật Tố tụng hành chính 2015.

[10]. Theo quy định của khoản 2 Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và khoản 2 Điều 25 Luật giám định tư pháp.

[11]. Khoản 3 Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[12]. Quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật Giám định tư pháp.

[13]. Quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 20 Luật Giám định tư pháp.

[14]. Quy định tại đoạn 3 khoản 2 Điều 20 Luật Giám định tư pháp.

[15]. Quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật Giám định tư pháp, được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 11 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[16]. Quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Giám định tư pháp; Điều 207 Bộ luật Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[17]. Quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 22 Luật Giám định tư pháp được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 12 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp; Điều 207 Bộ luật Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[18]. Sửa đổi, bổ sung theo quy định tại điểm b khoản 12 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp.

[19]. Quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 22 Luật Giám định tư pháp.

[20]. Quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật Giám định tư pháp, khoản 13 Điếu 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp; khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[21]. Bổ sung theo quy định tại khoản 13 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp

[22]. Bổ sung theo quy định tại khoản 13 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[23]. Bổ sung theo quy định tại khoản 13 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[24]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[25]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[26]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[27]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[28]. Quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật Giám định tư pháp; khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[29]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[30]. Quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật Giám định tư pháp, sửa đổi, bổ sung theo quy định tại điểm 1 khoản 14 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[31]. Quy định tại khoản 2 Điều 24 Luật Giám định tư pháp, sửa đổi, bổ sung theo quy định tại điểm 2 khoản 14 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[32]. Quy định tại Điều 26 a Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp; Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[33]. Khoản 1 Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[34]. Khoản 3, khoản 6 Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[35]. Khoản 2, 4 và 5 Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[36]. Bổ sung theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[37] Điều 34 Luật Giám định tư pháp

[38] Điều 28, Điều 29, Điều 30 Luật Giám định tư pháp

[39]. Khoản 1 Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[40] Điều 26 Luật Giám định tư pháp

[41]. Điều 3 Luật Giám định tư pháp.

[42]. Sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[43]. Thông tư số 14/2020/TT-NHNN ngày 16/11/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tư số 04/2021/TT-BVHTTDL ngày 8/6/2021 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tư số 24/2013/TT-BTTTT ngày 27/12/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông…  

[44]. Điều 6 Luật Giám định tư pháp, sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[45] Điều 27 Luật Giám định tư pháp

[46] Điều 31 Luật Giám định tư pháp, Sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 17 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[47] Sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 18 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[48]. Sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 18 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[49]. Quy định tại điểm đ, điểm e khoản 2 Điều 42, khoản 1, khoản 2 Điều 44 Luật Giám định tư pháp, sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 24 và khoản 26 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày