Tìm kiếm tin tức

 

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Thống kê lượt truy cập
Tổng truy cập 3.576.239
Truy cập hiện tại 8.980
Một số quy định chung về giám định tư pháp và kỹ năng tham gia tố tụng của người giám định tư pháp
Ngày cập nhật 31/10/2022

Giám định tư pháp là hoạt động bổ trợ tư pháp, là công cụ quan trọng, phục vụ đắc lực cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và công tác thi hành án hình sự, góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vụ án, vụ việc được chính xác, khách quan và đúng pháp luật.

 

Để đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng cũng như nhu cầu giám định của cá nhân, tổ chức, pháp luật về giám định tư pháp cũng từng bước được hoàn thiện, cụ thể là: i) Nghị định số 117/HĐBT ngày 21/7/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); ii) Pháp lệnh Giám định tư pháp (Pháp lệnh); iii) Luật Giám định tư pháp được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, Kỳ họp thứ ba thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2013; iv) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 10 tháng 6 năm 2020, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021; v) Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp (Nghị định số 85/2013/NĐ-CP) và Nghị định số 157/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2013/NĐ-CP.

Cùng với việc Quốc hội ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015, các luật liên quan khác và các Thông tư của các bộ, cơ quan ngang bộ hướng dẫn thực hiện Luật Giám định tư pháp đã tạo sự liên thông, đồng bộ giữa quy định của pháp luật về giám định tư pháp với quy định của pháp luật về tố tụng, là cơ sở pháp lý vững chắc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng.

Hoạt động giám định tư pháp cung cấp nguồn chứng cứ phục vụ hoạt động tố tụng. Theo quy định tại Điều 86 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”. Khoản 6 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.

Vì vậy, để kết luận giám định được sử dụng là “chứng cứ” trong việc giải quyết vụ án, vụ việc đòi hỏi việc thực hiện giám định phải theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về giám định tư pháp và pháp luật tố tụng. Do đó, cùng với yêu cầu về tiêu chuẩn; chuyên môn, nghiệp vụ; yêu cầu người thực hiện giám định tư pháp hiểu biết pháp luật, nắm được kỹ năng pháp lý liên quan là yêu cầu tất yếu, khách quan.

I. KHÁI NIỆM GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

1. Khái niệm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Giám định tư pháp năm 2012, sửa đổi, bổ sung theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp năm 2020 (Luật Giám định tư pháp) thì: Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố[1], điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật Giám định tư pháp.

2. Phân biệt hoạt động giám định tư pháp với hoạt động giám định khác

Hoạt động giám định tư pháp khác hoạt động giám định thông thường như giám định chất lượng hàng hóa, giám định chất lượng công trình xây dựng… do các hoạt động này thực hiện theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước, phục vụ hoạt động quản lý Nhà nước; trong khi đó hoạt động giám định tư pháp là hoạt động giám định theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật Giám định tư pháp và pháp luật tố tụng.

Ví dụ, cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng nhận đơn khiếu nại của công dân đề nghị xem xét việc nhà hàng xóm tiến hành xây dựng đã làm lún, nứt nhà mình. Cơ quan nhận đơn khiếu nại của công dân có thể trưng cầu tổ chức có năng lực tiến hành giám định về nguyên nhân gây lún, nứt để có căn cứ giải quyết khiếu nại theo yêu cầu của người khiếu nại. Trường hợp này tổ chức được trưng cầu giám định tiến hành giám định để kết luận về nguyên nhân gây lún, nứt và trả kết quả giám định cho cơ quan quản lý nhà nước đã trưng cầu giám định, hoạt động giám định này không phải là giám định tư pháp.

II. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG

Vai trò của hoạt động giám định tư pháp đối với hoạt động tố tụng là sự đóng góp tích cực, thể hiện trong việc cung cấp nguồn chứng cứ khoa học, tin cậy giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động chứng minh theo quy định của pháp luật tố tụng, góp phần quan trọng vào việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật.

Tại Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:

Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án; Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; Nguyên nhân chết người; Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; Mức độ ô nhiễm môi trường.

Các quy định này thể hiện mục đích của tố tụng hình sự là bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội ; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm[2].

Tương tự như vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính  năm 2015 cũng có những quy định thể hiện trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính phải trưng cầu giám định trong trường hợp cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự (Điều 79, Điều 102, Điều 103 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 89, Điều 90 Luật Tố tụng hành chính năm 2015).

Như vậy, có thể nói hoạt động giám định tư pháp đóng vai trò quan trọng, góp phần giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án hình sự, vụ việc dân sự, vụ án hành chính và các hoạt động tố tụng khác một cách chính xác, khách quan.

III. CHI PHÍ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

Chi phí giám định tư pháp trước đây được xác định là phí giám định tư pháp theo quy định của Pháp lệnh phí và lệ phí, theo đó phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Pháp lệnh này.

Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động giám định được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau với tính chất nghiệp vụ phức tạp rất khác nhau, chi phí phục vụ hoạt động giám định trong mỗi lĩnh vực, thậm chí trong mỗi vụ việc giám định về cùng một lĩnh vực chi phí giám định cũng có sự khác nhau rất lớn.

Vì vậy, để thực hiện việc thu phí giám định phù hợp đối với từng lĩnh vực giám định cần ban hành một văn bản riêng. Trên thực tiễn sau nhiều năm triển khai thực hiện, Bộ Tài chính mới ban hành được phí giám định tư pháp trong 04 lĩnh vực, cụ thể là: Pháp y; Pháp y tâm thần; Kỹ thuật hình sự; Thông tin và truyền thông, còn các lĩnh vực giám định khác chưa được quy định cụ thể, rõ ràng gây khó khăn trong việc thu phí giám định tư pháp, từ đó làm cho hoạt động giám định tư pháp bị ách tắc, nhất là tại những lĩnh vực như xây dựng, tài nguyên, môi trường… cần chi phí rất lớn.

Do vậy, vấn đề đặt ra là để hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng thì một trong những điều kiện quan trọng là hoạt động giám định phải được tính đúng, tính đủ tất cả các chi phí cần thiết đảm bảo tái đầu tư, bù đắp sức lao động... cho tổ chức, cá nhân người giám định tư pháp.

Để đáp ứng yêu cầu này, vấn đề phí giám định đã được nghiên cứu chuyển thành cơ chế giá dịch vụ. Vì vậy, Điều 36 Luật Giám định tư pháp[3] quy định: “người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có trách nhiệm trả chi phí giám định tư pháp cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp theo quy định của pháp luật về chi phí giám định tư pháp” và theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch (Pháp lệnh) thì: “Chi phí giám định là số tiền cần thiết, hợp lý phải chi trả cho công việc giám định do tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tính căn cứ vào quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Kinh phí thanh toán chi phí giám định tư pháp mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chi trả được bảo đảm từ nguồn ngân sách nhà nước theo dự toán hằng năm của cơ quan đó để thực hiện giám định tư pháp[4].

Như vậy, kể từ ngày 01/01/2013 Pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng có hiệu lực thi hành thì khái niệm chi phí giám định đã thay thế cho khái niệm phí giám định tư pháp.

1. Xác định chi phí giám định

Người thực hiện giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp có trách nhiệm thông báo cho người trưng cầu, người yêu cầu giám định về chi phí giám định theo từng vụ việc được trưng cầu, yêu cầu giám định.

Theo quy định tại Điều 9 Pháp lệnh và các điều (từ Điều 3 đến Điều 6) của Nghị định số 81/2014/NĐ-CP ngày 14/8/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh (Nghị định số 81/2014/NĐ-CP) thì chi phí giám định được xác định theo các căn cứ sau đây:

1.1. Chi phí tiền lương, thù lao cho người thực hiện giám định

Chi phí tiền lương được áp dụng trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định đối với tổ chức giám định tư pháp công lập, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc. Tổ chức thực hiện giám định căn cứ vào nội dung yêu cầu giám định, khối lượng công việc, thời gian cần thiết thực hiện giám định và các quy định của chế độ tiền lương hiện hành áp dụng đối với mình xác định chi phí tiền lương làm cơ sở thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Chi phí thù lao được áp dụng trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định đối với giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc là người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước và người đang hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Mức thù lao do Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc là người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước căn cứ nội dung yêu cầu giám định, khối lượng công việc, thời gian cần thiết thực hiện giám định và tiền lương, thu nhập thực tế của mình xác định hợp lý và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đối với Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc là người hưởng lương từ ngân sách nhà nước căn cứ quy định của pháp luật về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp (Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) xác định thù lao giám định tư pháp thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

1.2. Chi phí khấu hao máy móc, phương tiện, thiết bị và chi phí vật tư tiêu hao

- Tổ chức thực hiện giám định khi thực hiện giám định nếu phải sử dụng máy móc, phương tiện, thiết bị thì chi phí khấu hao máy móc, phương tiện, thiết bị được xác định như sau:

+ Trường hợp máy móc, phương tiện, thiết bị là tài sản cố định, chi phí khấu hao được xác định theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định cho từng loại máy móc, phương tiện, thiết bị của tổ chức thực hiện giám định và thời gian thực tế sử dụng phục vụ cho việc giám định.

+ Trường hợp máy móc, phương tiện, thiết bị không đáp ứng đủ điều kiện xác định là tài sản cố định thì chi phí khấu hao đối với máy móc, phương tiện, thiết bị được xác định theo phương pháp phân bổ dần vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ nhưng tối đa không quá 02 năm và không quá thời gian thực tế sử dụng phục vụ cho việc giám định.

- Tổ chức thực hiện giám định; giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc là người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước; giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc là người đang hưởng lương từ ngân sách nhà nước (sau đây gọi là tổ chức, cá nhân thực hiện giám định) khi thực hiện giám định nếu có sử dụng vật tư thì được xác định chi phí vật tư tiêu hao. Chi phí vật tư tiêu hao xác định căn cứ vào định mức vật tư tiêu hao và khối lượng công việc giám định phát sinh phù hợp trong từng lĩnh vực giám định.

Trường hợp chưa có quy định của pháp luật về định mức vật tư tiêu hao, tổ chức, cá nhân thực hiện giám định căn cứ các quy định có liên quan và điều kiện sử dụng vật tư phục vụ giám định để xác định mức vật tư tiêu hao thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định. Tổ chức, cá nhân thực hiện giám định phải chịu trách nhiệm về sự phù hợp của mức vật tư tiêu hao đã thông báo.

1.3. Chi phí sử dụng dịch vụ và chi phí khác

- Chi phí sử dụng dịch vụ được áp dụng trong trường hợp cần thiết phải sử dụng kết quả thực nghiệm, xét nghiệm bổ sung hoặc kết luận chuyên môn do cá nhân, tổ chức khác thực hiện và chi phí sử dụng dịch vụ thuê ngoài khác nhằm phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện giám định.

- Chi phí khác là những chi phí liên quan và phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện giám định tư pháp phù hợp với tính chất, nội dung từng vụ việc trong các lĩnh vực cụ thể.

Chi phí sử dụng dịch vụ và chi phí khác được xác định căn cứ theo thực tế phát sinh của từng trường hợp cụ thể trên cơ sở có đủ hợp đồng (nếu có) và hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

2. Trách nhiệm thanh toán chi phí giám định tư pháp

Theo quy định tại Điều 36 Luật Giám định tư pháp thì: người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có trách nhiệm chi trả chi phí giám định tư pháp cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp theo quy định của pháp luật về chi phí giám định tư pháp.

IV. CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

Giám định tư pháp là hoạt động phức tạp, khó khăn đòi hỏi sự tận tâm, tận lực cũng như cần động viên, khuyến khích người có trình độ chuyên môn cao tham gia công tác giám định tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng.

1. Chế độ đối với người giám định tư pháp và người tham gia giám định tư pháp[5],

1.1. Chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp

Điều 37 Luật Giám định tư pháp quy định: Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, người giúp việc cho người giám định tư pháp đang hưởng lương từ ngân sách nhà nước, người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao trách nhiệm có mặt, thực hiện nhiệm vụ trong thời gian thực hiện giám định đối với trường hợp khám nghiệm tử thi, mổ tử thi, khai quật tử thi thì được hưởng bồi dưỡng giám định tư pháp theo vụ việc giám định. Ngày 01/01/2014 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp (chi tiết theo bảng dưới đây).

STT

LOẠI VIỆC GIÁM ĐỊNH

MỨC BỒI DƯỠNG

I

Theo ngày công

1

Mức 1

150.000 đ/ngày

2

Mức 2

300.000 đ/ngày

3

Mức 3

500.000 đ/ngày

II

Theo vụ việc

1

Trên người sống

 

Mức 1 (chuyên khoa sâu)

160.000 đ/nội dung yêu cầu

 

Mức 2 (tổng quát)

200.000 đ/nội dung yêu cầu

 

Mức 3 (hội chẩn chuyên môn sâu)

300.000 đ/nội dung yêu cầu

2

Trên tử thi

2.1

Không mổ tử thi

 

Mức 1 (trong 48 giờ)

600.000đ/tử thi

 

Mức 2 (ngoài 48 giờ đến 7 ngày)

800.000đ/tử thi

 

Mức 3 (quá 7 ngày)

1.000.000đ/tử thi

2.2

Mổ tử thi

 

Mức 1(trong 48 giờ)

1.500.000đ/tử thi

 

Mức 2 (ngoài 48 giờ đến 7 ngày)

2.500.000đ/tử thi

 

Mức 3 (quá 7 ngày)

3.000.000đ/tử thi

 

Mức 4 (quý 7 ngày và phải khai quật)

4.500.000đ/tử thi

3

Giám định hài cốt

 

Mức 1

3.000.000đ/hài cốt

 

Mức 2

4.500.000đ/hài cốt

1.2. Chế độ đối với người giám định tư pháp không hưởng lương từ ngân sách nhà nước

Người giám định tư pháp không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc không do Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động tiếp nhận và thực hiện giám định tư pháp trên cơ sở thỏa thuận với người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định

1.3. Chế độ phụ cấp giám định và chế độ ưu đãi khác

- Giám định viên tư pháp ở các tổ chức giám định chuyên trách như Pháp y, Pháp y tâm thần, Kỹ thuật hình sự được hưởng phụ cấp trách nhiệm công việc giám định tư pháp theo quy định tại Thông tư số 02/2009/TT-BTP ngày 17/9/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, theo đó giám định viên pháp y, giám định viên pháp y tâm thần, giám định viên kỹ thuật hình sự là người hưởng lương từ ngân sách nhà nước được hưởng mức là 0,3 của mức lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở).

- Giám định viên pháp y, giám định viên pháp y tâm thần được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề quy định tại Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 4/7/2011 của Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập, theo đó giám định viên pháp y, giám định viên pháp y tâm thần được hưởng 70%/mức lương ngạch, bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có), người giúp việc giám định viên pháp y, giám định viên pháp y tâm thần được hưởng 30%/mức lương ngạch, bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

- Giám định viên tư pháp thuộc lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được hưởng phụ cấp theo quy định của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.

2. Chính sách đối với hoạt động giám định tư pháp

2.1. Chính sách ưu đãi đối với tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập

Tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập được hưởng một số chính sách về ưu đãi thuế, tiền thuê đất… theo quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy rất khó khăn, cụ thể năm 2008 Chính phủ đã có Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong một số lĩnh vực nhưng lại chưa có quy định về lĩnh vực giám định tư pháp. Đến 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ, theo đó đã bổ sung lĩnh vực giám định tư pháp được ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất.

2.2. Tôn vinh, khen thưởng[6]

- Người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc có đóng góp tích cực cho hoạt động giám định tư pháp thì được tôn vinh, khen thưởng.

- Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khả năng, điều kiện thực tế và thẩm quyền của mình quy định chế độ, chính sách khác để thu hút chuyên gia, tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp.

V. CHÍNH SÁCH THU HÚT CHUYÊN GIA, TỔ CHỨC CÓ NĂNG LỰC THAM GIA HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Giám định tư pháp là lĩnh vực có yêu cầu, đòi hỏi cao về mặt chuyên môn trong thực hiện nhiệm vụ cũng như việc chịu trách nhiệm với kết quả thực hiện giám định nhằm phục vụ cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Chính vì vây mà nguồn nhân lực trong lĩnh vực giám định tư pháp có thể nói là rất khó khăn. Thêm vào đó, chế độ, chính sách đối với người thực hiện giám định tư pháp chưa thật sự tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ nên những người có thể đáp ứng được tiêu chuẩn làm giám định tư pháp lại càng không “mặn mà”. Trước thực trạng đó, để xây dựng, phát triển đội ngũ giám định tư pháp, Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương đi đầu trong việc ban hành chế độ, chính sách thu hút chuyên gia; tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp.

1. Căn cứ ban hành chế độ chính sách thu hút chuyên gia, tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp

- Khoản 3 Điều 38 Luật Giám định tư pháp năm 2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: “Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khả năng, điều kiện thực tế và thẩm quyền của mình quy định chế độ chính sách khác để thu hút chuyên gia, tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp”.

- Quyết định số 258/QĐ-TTg ngày 11/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp và Quyết định số 1358/QĐ-TTg ngày 03/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch tổng thể thực hiện Quyết định số 258/QĐ-TTg ngày 11/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp đã đề ra:

“Nghiên cứu, xây dựng cơ chế thu hút đội ngũ nhà chuyên môn, chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp; hoàn thiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với các cá nhân tham gia hoạt động giám định cả ở phương diện vật chất (ngạch lương riêng, phụ cấp trách nhiệm, chế độ thâm niên đối với người giám định tư pháp chuyên trách, chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp đối với người giám định hưởng lương từ ngân sách nhà nước; bảo đảm tương quan thu nhập từ việc thực hiện giám định tư pháp với mặt bằng thu nhập của người giám định không hưởng lương từ ngân sách nhà nước) và phi vật chất (tôn vinh các chuyên gia giỏi, hàng đầu trong các lĩnh vực tham gia hoạt động giám định)”.

- Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 28/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp quy định tại điểm e khoản 2 mục III của Đề án: “Kiến nghị chính sách cần thiết phù hợp bảo đảm việc đãi ngộ và thu hút người làm giám định tư pháp”.

Về mặt thực tế, người giám định tư pháp phải làm việc với cường độ cao, nhiều nhiệm vụ đột xuất phát sinh, môi trường làm việc độc hại, nguy hiểm, tiếp xúc thường xuyên với độc tố, các bệnh truyền nhiễm, nhất là Giám định viên tư pháp trong lĩnh vực giám định kỹ thuật hình sự và giám định pháp y. Chế độ chịu trách nhiệm của người giám định tư pháp nặng nề.

Chế độ đãi ngộ đối với giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc chưa đảm bảo, ngoài việc được bồi dưỡng giám định theo Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg, họ không được hưởng chế độ nào khác. Mặc dù số vụ việc giám định hàng năm không nhiều, nhưng trách nhiệm của người giám định rất nặng nề, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định (tham khảo Điều 60 BLTT hình sự năm 2003, Điều 68 BLTT hình sự năm 2015; Điều 80 BLTT dân sự năm 2015; Điều 57 Luật tố tụng hành chính năm 2010).

Trong khi đó, chế độ bồi dưỡng được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg ngày 01 tháng 01 năm 2014 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp; Thông tư 49/2017/TT-BCA của Bộ Công an. Theo đó,  chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp theo ngày công được áp dụng đối với việc giám định tư pháp trong các lĩnh vực: Pháp y về độc chất, tổ chức học, sinh học, giám định trên hồ sơ; pháp y tâm thần; kỹ thuật hình sự; tài chính; ngân hàng; văn hóa; xây dựng; tài nguyên và môi trường; thông tin và truyền thông; nông - lâm - ngư nghiệp và các lĩnh vực khác. Mức bồi dưỡng là từ 150.000 đồng đến  500.000 đồng tùy vụ việc cụ thể.

Chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp theo vụ việc được áp dụng đối với giám định trên người sống và trên tử thi trong lĩnh vực pháp y. Mức bồi dưỡng cho một người thực hiện giám định trên người sống từ 160.000 đồng đến 300.000 đồng/nội dung (quy định theo từng nội dung). Mức bồi dưỡng cho một người thực hiện giám định tử thi mà không mổ tử thi và tử thi không được bảo quản theo đúng quy chuẩn hoặc ở trạng thái thối rữa tự nhiên từ 600.000 đồng - 1.000.000 đồng/tử thi. Mức bồi dưỡng cho một người thực hiện giám định mổ tử thi mà tử thi không được bảo quản theo đúng quy chuẩn hoặc ở trạng thái thối rữa tự nhiên từ 1.500.000 đồng đến 4.500.000 đồng/tử thi. Mức bồi dưỡng cho một người thực hiện giám định hài cốt là từ 3.000.000 đồng - 4.000.000 đồng/hài cốt,...

Mức bồi dưỡng như trên chưa tương xứng với tính chất, mức độ và yêu cầu đối với người giám định tư pháp.

2. Thừa Thiên Huế ban hành chế độ, chính sách thu hút chuyên gia, tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp

Từ căn cứ trên, Hội đồng nhân dân tỉnhThừa Thiên Huế ban hành Nghị quyết số 15/2016/NQ-HĐND ngày 09 tháng 12 năm 2016  quy định chế độ, chính sách thu hút chuyên gia, tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh,Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 11/2017/QĐ-UBND ngày 22 tháng 02 năm 2017 quy định chế độ, chính sách thu hút chuyên gia; tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Chế độ hỗ trợ được thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Các nội dung chủ yếu của chế độ, chính sách trên như sau:

a)  Đối tượng được hưởng chính sách thu hút gồm: (i) Những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, chuyên gia trong các lĩnh vực, ngành nghề; (ii) Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc; (iii) Người giúp việc cho người giám định tư pháp; (iv) Văn phòng giám định tư pháp.

b) Điều kiện để được hưởng chính sách thu hút như sau:

-  Những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, chuyên gia trong các lĩnh vực, ngành nghề được bổ nhiệm giám định viên tư pháp hoặc công bố là người giám định tư pháp theo vụ việc theo quy định của pháp luật và tham gia thực hiện giám định theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng của tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc thực hiện giám định theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng của tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Người giúp việc cho người giám định tư pháp hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong lĩnh vực pháp y và kỹ thuật hình sự tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện giám định theo sự phân công của Thủ trưởng tổ chức được trưng cầu giám định hoặc do người giám định tư pháp chịu trách nhiệm điều phối việc thực hiện giám định chỉ định nhưng không quá 02 người giúp việc đối với mỗi trường hợp giám định.

- Văn phòng giám định tư pháp được Ủy ban nhân dân tỉnh cho phép thành lập và đảm bảo các tiêu chí về điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật giám định tư pháp và văn bản quy phạm pháp luật liên quan.

c) Các chính sách cụ thể:

(1) Chính sách hỗ trợ đối với giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc và người giúp việc cho người giám định tư pháp:

- Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong các lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự; giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc không hưởng lương từ ngân sách nhà nước khi thực hiện giám định theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được hỗ trợ 50% mức bồi dưỡng được quy định tại Điều 2 và Điều 3 của Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg ngày 01 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp;

- Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong các lĩnh vực khác khi thực hiện giám định theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được hỗ trợ 100% mức bồi dưỡng được quy định tại Điều 2 của Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg;

- Người giúp việc cho người giám định tư pháp hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong lĩnh vực pháp y và kỹ thuật hình sự tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện giám định được hỗ trợ 20% mức bồi dưỡng được quy định tại Điều 2 và Điều 3 của Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg.

(2) Chế độ đào tạo, bồi dưỡng: Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc tham dự các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật về giám định tư pháp do Trung ương, ngành hoặc địa phương tổ chức, nêu không thuộc đối tượng được hưởng chính sách đào tạo, bồi dưỡng theo quy định thì được hỗ trợ theo mức quy định như đối tượng của chính sách đào tạo, bồi dưỡng.

(3) Chính sách khác: Giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc được cơ quan, đơn vị nơi làm việc tạo điều kiện về thời gian, phương tiện, trang thiết bị để phục vụ công tác giám định tư pháp.

(4) Chính sách ưu đãi đối với Văn phòng giám định tư pháp: Văn phòng giám định tư pháp được hưởng các ưu đãi thuộc chính sách khuyến khích xã hội hóa theo quy định của pháp luật.

d) Phương thức thực hiện

- Nguồn kinh phí hỗ trợ: Nguồn kinh phí để chi trả chế độ hỗ trợ cho giám định viên và người giám định tư pháp theo vụ việc do ngân sách nhà nước tỉnh cấp. Hàng năm, Sở Tư pháp lập dự toán kinh phí hỗ trợ gửi Sở Tài chính thẩm định trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt kinh phí để thực hiện.

- Cách thức chi hỗ trợ:

+ Chi trả tiền hỗ trợ đối với giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc và người giúp việc cho người giám định tư pháp: Trước ngày 15 của tháng đầu quý, các sở, ngành quản lý lĩnh vực giám định tư pháp, các tổ chức giám định tư pháp công lập lập danh sách người giám định tư pháp, người giúp việc cho người giám định tư pháp được hưởng hỗ trợ của quý trước gửi về Sở Tư pháp để thực hiện việc chi trả hỗ trợ. Cơ sở để chi trả hỗ trợ là bản sao hồ sơ thanh toán tiền bồi dưỡng hoặc tiền thù lao giám định tư pháp đã được cơ quan tiến hành tố tụng chi trả.

+ Chi trả tiền hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng: Cơ quan sử dụng công chức, viên chức chi trả cho các đối tượng được hưởng chính sách đào tạo, bồi dưỡng theo quy định. Sở Tư pháp chi trả cho các đối tượng không được hưởng chính sách đào tạo, bồi dưỡng theo quy định hiện hành của nhà nước; cơ sở để chi trả hỗ trợ là chứng từ hợp lệ theo quy định.

VI. QUYỀN CỦA NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP KHI THỰC HIỆN GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP[7]

1. Lựa chọn phương pháp cần thiết, phù hợp để tiến hành giám định theo nội dung yêu cầu giám định.

Phương pháp là tổng hợp các cách thức để một người tiến hành thực hiện một công việc cụ thể. Phương pháp thực hiện giám định do người giám định lựa chọn, có thể có phương pháp chung khi thực hiện giám định, có thể có phương pháp riêng phù hợp với từng lĩnh vực giám định. Khi thực hiện giám định một vụ việc cụ thể, người giám định tư pháp căn cứ nội dung vụ việc, đối tượng giám định, các nội dung cần giám định và các hướng dẫn của Bộ, ngành về quy chuẩn chuyên môn để xác định, lựa chọn phương pháp tiến hành giám định phù hợp thực hiện giám định đảm bảo kết quả giám định được chính xác.

2. Sử dụng kết quả thực nghiệm, xét nghiệm bổ sung hoặc kết luận chuyên môn do cá nhân, tổ chức khác thực hiện nhằm phục vụ cho việc giám định

Thông thường mỗi nội dung giám định cần có nhiều nguồn thông tin liên quan mà mỗi người giám định không thể tự thực hiện, trong trường hợp này người giám định cần yêu cầu tổ chức, cá nhân khác có chuyên môn, có trang thiết bị phù hợp thực hiện một số thực nghiệm, xét nghiệm hoặc kết luận về một số chuyên môn liên quan để người giám định có thêm căn cứ cần thiết phục vụ việc xây dựng kết luận giám định của mình.

Ví dụ, trong một vụ giám định pháp y thương tích, hay giám định pháp y tâm thần, người giám định có thể yêu cầu đơn vị chuyên khoa thực hiện chụp (Xquang) một số bộ phận cơ thể và kết luận về tình trạng tổn thương các bộ phận đó để người giám định tổng hợp kết luận về tình trạng sức khỏe, mức độ tổn thương cơ thể của người được giám định; trong giám định về tài chính, thuế, người giám định có thể sử dụng kết luận thanh tra do đơn vị thanh tra trước đó đã kết luận một số vấn đề liên quan để kết luận giám định.

3. Độc lập đưa ra kết luận giám định

Độc lập đưa ra kết luận giám định là tự mình bằng tư duy khoa học, kiến thức chuyên môn của mình, tham khảo các kết quả nghiên cứu, các tài liệu liên quan, người giám định đưa ra kết luận của mình mà không lệ thuộc ý chí chủ quan của người khác, kể cả trong trường hợp sử dụng tài liệu, kết luận của đơn vị chuyên môn liên quan.

4. Đề nghị người trưng cầu giám định hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật khi có dấu hiệu bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân hoặc người thân thích do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp[8].

5. Từ chối thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình[9].

6. Được bố trí vị trí phù hợp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa[10].

7. Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định[11]

8. Yêu cầu cơ quan trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định cung cấp tài liệu cần thiết cho việc kết luận[12].

9. Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định[13].

10. Ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận chung trong trường hợp giám định do tập thể giám định viên tiến hành[14].

Theo quy định tại Điều 28 Luật Giám định tư pháp thì “giám định tập thể là việc giám định do 02 người trở lên thực hiện”. Giám định tập thể gồm: Giám định tập thể về một lĩnh vực chuyên môn và giám định tập thể thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau.

Trong trường hợp một nội dung giám định có từ 02 người giám định trở lên thực hiện, thì những người giám định ký vào bản kết luận giám định chung; nếu người giám định có ý kiến khác với những ý kiến của những người giám định khác, người đó có quyền ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm với ý kiến đó (khoản 3 Điều 28 Luật Giám định tư pháp).

VII. NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP KHI THỰC HIỆN GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP[15]

1. Tuân thủ các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp

Nguyên tắc giám định tư pháp có tính chất soi sáng, định hướng xuyên suốt quá trình thực hiện giám định. Người giám định tư pháp phải quán triệt, tuân thủ triệt để 04 nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp quy định tại Điều 3 Luật Giám định tư pháp, gồm: i) Tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn và quy trình giám định; ii) Trung thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp thời; iii) Chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề trong phạm vi được yêu cầu; iv) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định.

Việc tuân thủ các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp là tiền đề quan trọng đảm bảo kết luận giám định tư pháp được kịp thời, chính xác, khách quan, đúng pháp luật.

2. Thực hiện giám định theo đúng nội dung yêu cầu giám định

Nội dung yêu cầu giám định là những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, vụ việc được cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định thể hiện tại văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp. Việc thực hiện theo đúng nội dung yêu cầu giám định tư pháp là đảm bảo thực hiện chính xác, đầy đủ các nội dung cần giám định, tránh trường hợp giám định nội dung không được yêu cầu hay bỏ sót nội dung được yêu cầu. Người giám định tư pháp cần nghiên cứu cẩn trọng những nội dung yêu cầu giám định của văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định. Trong trường hợp cần thiết phải trao đổi, thảo luận với người trưng cầu, yêu cầu giám định để nắm bắt đầy đủ, chính xác nội dung yêu cầu giám định.

3. Thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn yêu cầu; trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để thực hiện giám định thì phải thông báo kịp thời cho người trưng cầu, yêu cầu giám định biết

Thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn yêu cầu là khoảng thời gian từ khi tiếp nhận trưng cầu giám định đến khi trả kết luận giám định. Thời hạn giám định thể hiện dưới 02 hình thức: thời hạn giám định do pháp luật quy định và thời hạn giám định do người trưng cầu, yêu cầu giám định ấn định trong văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định.

4. Lập hồ sơ giám định.

Hồ sơ giám định do người giám định tư pháp lập theo mẫu thống nhất do bộ, cơ quan ngang bộ hướng dẫn phù hợp với từng lĩnh vực giám định. Hồ sơ giám định tư pháp gồm đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 33 Luật Giám định tư pháp và được xuất trình khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

5. Bảo quản mẫu vật giám định, tài liệu liên quan đến vụ việc giám định.

6. Không được thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp được người đã trưng cầu, yêu cầu giám định đồng ý bằng văn bản.

7. Chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình đưa ra. Trường hợp cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì còn phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.

8. Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng[16].

Quan hệ của người giám định tư pháp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã trưng cầu giám định không chỉ diễn ra trong thời gian thực hiện giám định, trong trường hợp cần thiết khi đánh giá, sử dụng kết luận giám định cơ quan tiến có thẩm quyền hành tố tụng có thể triệu tập người giám định tư pháp để làm rõ nội dung kết luận giám định hoặc khi xét xử, Hội đồng xét xử thấy cần thiết triệu tập người giám định tư pháp tham gia phiên tòa để bổ sung hoặc giải thích kết luận giám định thì có thể triệu tập người giám định tư pháp đến phiên tòa. Trong các trường hợp nêu trên, khi được triệu tập, người giám định tư pháp có trách nhiệm chấp hành việc triệu tập đó và có mặt theo đúng thời gian được ghi trong giấy triệu tập.

9. Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện giám định

Bí mật điều tra là nội dung các sự kiện, tài liệu thể hiện những thông tin liên quan trong vụ án hình sự do cơ quan điều tra có thẩm quyền xác lập, thu thập được phục vụ hoạt động chứng minh, giải quyết vụ việc (hồ sơ tố tụng). Khi thực hiện giám định, người giám định tư pháp được tiếp xúc với hồ sơ tố tụng để tìm hiểu những thông tin liên quan. Tuy nhiên, người giám định tư pháp chỉ được sử dụng những thông tin đó phục vụ việc giám định, kết luận giám định mà không được tiết lộ những thông tin đó cho người khác.

10. Phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp: đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo; đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản trong vụ án đó; đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó (khoản 5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 thì thuật ngữ “thân thích” được hiểu là: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, dì ruột; cháu ruột của đương sự.

11. Người giám định kết luận gian dối hoặc từ chối kết luận giám định mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự (khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

VIII. KỸ NĂNG THAM GIA TỐ TỤNG

Tham gia tố tụng vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của người giám định trên các phương diện: tìm hiểu thêm thông qua việc tham dự hỏi cung, nghiên cứu hồ sơ, giải đáp những thắc mắc của cơ quan trưng cầu trong quá trình thực hiện giám định, trình bày các luận cứ, giải thích bổ sung bảo vệ kết luận giám định và cung cấp thêm kết luận giám định tại phiên tòa. Việc tham gia tố tụng chủ yếu thể hiện ở các khâu điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự hoặc xét xử trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính với một số hoạt động cụ thể sau đây:

1. Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối t­ượng giám định, yêu cầu cơ quan tr­ưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định

Khi thực hiện giám định, người giám định xét thấy cần thiết phải có tài liệu bổ sung hoặc có những tình tiết mới cần thiết tìm hiểu thì có quyền yêu cầu người trưng cầu, yêu cầu cung cấp hồ sơ vụ án.

2. Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tư­ợng giám định

Trong trường hợp cần thiết hỏi thêm đối tượng giám định là người hoặc tìm hiểu thêm thông tin mà có thể chỉ bị can nắm được thì theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015  năm 2015, người giám định có thể yêu cầu cơ quan điều tra, điều tra viên bố trí để tham dự việc hỏi cung để đặt câu hỏi làm rõ những vấn đề có liên quan đến đối tư­ợng giám định. Để làm tốt công việc này, người giám định cần nghiên cứu kỹ tất cả tài liệu, hồ sơ hiện có, ghi riêng những nội dung cần làm sáng tỏ và có thể dự liệu trước các câu hỏi.

3. Tham dự phiên tòa

Để thực hiện tốt vai trò của người tham gia tố tụng, ngoài việc chuẩn bị tốt về nội dung kết luận và quá trình thực hiện giám định, người giám định cần tìm hiểu để xác định rõ quy định của pháp luật tố tụng tương ứng, nhất là các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng[17]; đồng thời cần nắm rõ trình tự thủ tục, diễn tiến của phiên tòa xét xử [18]. Khi tham dự phiên tòa, người giám định cần lắng nghe, ghi chép tỉ mỉ những ý kiến của chủ tọa, của những người liên quan để chủ động có những giải pháp hợp lý, phù hợp. Mục đích việc tham dự phiên tòa thường là: trình bày kết luận giám định, giải thích thêm về một số nội dung trong kết luận giám định, trả lời câu hỏi của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên và câu hỏi của những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.

Để thực tốt yêu cầu này, người giám định nghiên cứu kỹ những nội dung vụ việc giám định, kết luận giám định; nắm rõ quyền và nghĩa vụ của người giám định cũng như quyền và nghĩa vụ của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác trong giai đoạn tố tụng; những nguyên tắc thực hiện giám định để chuẩn bị “tâm thế” trình bày kết luận giám định, giải thích bổ sung về kết luận giám định, có thể giải thích phương pháp, phương tiện tiến hành để giám định, các căn cứ để đưa ra kết luận giám định. Trả lời những câu hỏi của hội đồng xét xử, câu hỏi của những người tham gia tố tụng khác. Trong trường hợp cần thiết, người giám định có thể đặt câu hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác. Việc trả lời câu hỏi cần rõ ràng, ngắn gọn, đúng phạm vi chuyên môn, biết từ chối những câu hỏi có nội dung ngoài phạm vi trách nhiệm.

IX. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

1. Trong tố tụng hình sự  

Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về người giám định. Theo đó, người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.

Người giám định có quyền:

- Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định;

- Yêu cầu cơ quan trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định cung cấp tài liệu cần thiết cho việc kết luận;

- Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định;

- Từ chối thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình;

- Ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận chung trong trường hợp giám định do tập thể giám định tiến hành;

- Các quyền khác theo quy định của Luật giám định tư pháp.

Người giám định có nghĩa vụ:

- Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

- Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện giám định;

- Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật giám định tư pháp.

Người giám định kết luận gian dối hoặc từ chối kết luận giám định mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp sau:

- Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo;

- Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản trong vụ án đó;

- Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.

Việc thay đổi người giám định do cơ quan trưng cầu giám định quyết định.

2. Trong tố tụng dân sự

- Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định mà Tòa án trưng cầu giám định hoặc được đương sự yêu cầu giám định theo quy định.

- Người giám định có quyền, nghĩa vụ sau đây:

+ Được đọc tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng giám định; yêu cầu Tòa án cung cấp tài liệu cần thiết cho việc giám định;

+ Đặt câu hỏi đối với người tham gia tố tụng về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định;

+ Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trình bày, giải thích, trả lời những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định một cách trung thực, có căn cứ, khách quan;

+ Phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án về việc không thể giám định được do việc cần giám định vượt quá khả năng chuyên môn, tài liệu cung cấp phục vụ cho việc giám định không đủ hoặc không sử dụng được;

+ Phải bảo quản tài liệu đã nhận và gửi trả lại Tòa án cùng với kết luận giám định hoặc cùng với thông báo về việc không thể giám định được;

+ Không được tự mình thu thập tài liệu để tiến hành giám định, tiếp xúc với người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến kết quả giám định; không được tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi tiến hành giám định hoặc thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ Thẩm phán quyết định trưng cầu giám định;

+ Được thanh toán các chi phí có liên quan theo quy định của pháp luật;

+ Phải cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.

- Người giám định phải từ chối giám định hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:

+ Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 52 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và tại Điều 34 của Luật Giám định tư pháp;

+ Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;

+ Họ đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.

- Thủ tục từ chối giám định hoặc đề nghị thay đổi người giám định: Việc từ chối giám định hoặc đề nghị thay đổi người giám định trước khi mở phiên tòa, phiên họp phải được lập thành văn bản nêu rõ lý do của việc từ chối hoặc đề nghị thay đổi. Việc từ chối giám định hoặc đề nghị thay đổi người giám định tại phiên tòa, phiên họp phải được ghi vào biên bản phiên tòa, phiên họp.

- Quyết định việc thay đổi người giám định: Trước khi mở phiên tòa, phiên họp, việc thay đổi người giám định do Chánh án Tòa án quyết định. Tại phiên tòa, phiên họp, việc thay đổi người giám định do Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết việc dân sự quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết việc dân sự thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa số.

Trường hợp phải thay đổi người giám định thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết việc dân sự ra quyết định hoãn phiên tòa, phiên họp. Việc trưng cầu người giám định khác hoặc thay người phiên dịch khác được thực hiện theo quy định tại Điều 79 và Điều 81 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Sự có mặt của người giám định: Người giám định có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án để giải thích, trả lời những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định. Trường hợp người giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử hoặc hoãn phiên tòa.

- Giải quyết yêu cầu thay đổi người người giám định: Trường hợp có người yêu cầu thay đổi người giám định thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định theo thủ tục do Bộ luật này quy định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.

- Tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí giám định: Tiền tạm ứng chi phí giám định là số tiền mà người giám định tạm tính để tiến hành việc giám định theo quyết định của Tòa án hoặc theo yêu cầu giám định của đương sự. Chi phí giám định là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho việc giám định và do người giám định tính căn cứ vào quy định của pháp luật.

- Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí giám định: Trường hợp các đương sự không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí giám định được xác định như sau:

+ Người yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định. Trường hợp các bên đương sự yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định về cùng một đối tượng thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa số tiền tạm ứng chi phí giám định.

+ Trường hợp Tòa án xét thấy cần thiết và quyết định trưng cầu giám định thì nguyên đơn, người yêu cầu giải quyết việc dân sự, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định.

+ Đương sự, người có yêu cầu giải quyết việc dân sự, người kháng cáo đã yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định mà không được chấp nhận và tự mình yêu cầu tổ chức, cá nhân thực hiện giám định thì việc nộp tiền tạm ứng chi phí giám định được thực hiện theo quy định của Luật Giám định tư pháp.

- Nghĩa vụ chịu chi phí giám định: Trường hợp các bên đương sự không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì nghĩa vụ chịu chi phí giám định được xác định như sau:

+ Người yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải chịu chi phí giám định, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người đó là không có căn cứ. Trường hợp kết quả giám định chứng minh yêu cầu của họ chỉ có căn cứ một phần thì họ phải nộp chi phí giám định đối với phần yêu cầu của họ đã được chứng minh là không có căn cứ;

+ Người không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự khác trong vụ án phải nộp chi phí giám định, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người yêu cầu trưng cầu giám định là có căn cứ. Trường hợp kết quả giám định chứng minh yêu cầu trưng cầu giám định chỉ có căn cứ một phần thì người không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định phải chịu chi phí giám định tương ứng với phần yêu cầu đã được chứng minh là có căn cứ;

Trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217, điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì nguyên đơn phải chịu chi phí giám định. Trường hợp đình chỉ giải quyết việc xét xử phúc thẩm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 289, khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải chịu chi phí giám định.

Trường hợp người tự mình yêu cầu giám định theo quy định tại khoản 3 Điều 160 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người đó là có căn cứ thì người thua kiện phải chịu chi phí giám định. Trường hợp kết quả giám định chứng minh yêu cầu giám định của họ chỉ có căn cứ một phần thì họ phải nộp chi phí giám định đối với phần yêu cầu của họ đã được chứng minh là không có căn cứ. Đối với các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án khác theo quy định thì người yêu cầu trưng cầu giám định phải chịu chi phí giám định.

- Xử lý tiền tạm ứng chi phí giám định đã nộp: Trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định không phải chịu chi phí giám định thì người phải chịu chi phí giám định theo quyết định của Tòa án phải hoàn trả cho người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định. Trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định phải chịu chi phí giám định, nếu số tiền tạm ứng đã nộp chưa đủ cho chi phí giám định thực tế thì họ phải nộp thêm phần tiền còn thiếu; nếu số tiền tạm ứng đã nộp nhiều hơn chi phí giám định thực tế thì họ được trả lại phần tiền còn thừa theo quyết định của Tòa án.

3. Trong tố tụng hành chính

Điều 63 Bộ luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần được giám định, được các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn hoặc được Tòa án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự.

- Người giám định có các quyền, nghĩa vụ sau đây:

+ Được đọc tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng giám định; yêu cầu Tòa án cung cấp tài liệu cần thiết cho việc giám định;

+ Đặt câu hỏi đối với người tham gia tố tụng về những vấn đề liên quan đến đối tượng giám định;

+ Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, trả lời những vấn đề liên quan đến việc giám định;

+ Thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết về việc không thể giám định được do việc cần giám định vượt quá khả năng chuyên môn; tài liệu cung cấp phục vụ cho việc giám định không đủ hoặc không sử dụng được;

+ Bảo quản tài liệu đã nhận và gửi trả lại Tòa án cùng với kết luận giám định hoặc cùng với thông báo về việc không thể giám định được;

+ Không được tự mình thu thập tài liệu là đối tượng giám định, tiếp xúc với những người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó ảnh hưởng đến kết quả giám định; không được tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi tiến hành giám định hoặc thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ người đã quyết định trưng cầu giám định;

+ Độc lập đưa ra kết luận giám định; kết luận giám định một cách trung thực, có căn cứ;

+ Được thanh toán các khoản chi phí theo quy định của pháp luật;

+ Cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.

- Người giám định phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:

+ Đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự;

+ Đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;

+ Đã thực hiện việc giám định đối với cùng một đối tượng cần giám định trong cùng vụ án đó;

+ Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên;

+ Có căn cứ rõ ràng khác cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

- Thủ tục từ chối người giám định: Trước khi mở phiên tòa, việc từ chối người giám định, người phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch phải được lập thành văn bản và nêu rõ lý do của việc từ chối hoặc đề nghị thay đổi; việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Chánh án Tòa án quyết định.

Tại phiên tòa, việc từ chối người giám định, người phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch phải được ghi vào biên bản phiên tòa; việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.

- Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định: Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.

Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.

Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa rõ ràng thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định, triệu tập người giám định đến phiên tòa để trực tiếp trình bày về nội dung liên quan.

Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định giám định bổ sung trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ án đã được kết luận giám định trước đó.

Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.

- Trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo: Trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại; nếu không rút lại thì người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Tòa án có quyền quyết định trưng cầu giám định theo quy định. Trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

Người đưa ra chứng cứ được kết luận là giả mạo phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác và phải chịu chi phí giám định nếu Tòa án quyết định trưng cầu giám định.

- Sự có mặt của người giám định: Người giám định có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án để làm rõ những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định. Trường hợp người giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.

- Giải quyết yêu cầu thay đổi người giám định: Trường hợp tại phiên tòa có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu theo quy định của Luật này; nếu không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do và ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp có ý kiến về người giám định vi phạm một trong các quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Hội đồng xét xử phải xem xét; nếu có căn cứ thì quyết định tiến hành giám định lại theo quy định của pháp luật.

- Hỏi người giám định: Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám định. Khi trình bày, người giám định có quyền giải thích về kết luận giám định, căn cứ để đưa ra kết luận giám định.

 Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định hoặc có mâu thuẫn với chứng cứ khác của vụ án.

Trường hợp người giám định không có mặt tại phiên tòa thì Chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định.

Khi có người tham gia tố tụng không đồng ý với kết luận giám định được công bố tại phiên tòa và có yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại; trường hợp xét thấy việc giám định bổ sung, giám định lại không cần thiết thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục phiên tòa; trường hợp xét thấy việc giám định bổ sung, giám định lại cần thiết cho việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại và tạm ngừng phiên tòa để chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại.

 


[1]. Bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[2]. Điều 2 Bộ luật Tố tụng  hình sự 2015.

[3]. Sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[4]. Quy định tại Điều 36 Luật Giám định tư pháp, được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[5]. Quy định tại Điều 37 Luật Giám định tư pháp, sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 21 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[6]. Quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật Giám định tư pháp, sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 22 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[7]. Quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật Giám định tư pháp, khoản 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp; khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[8]. Bổ sung theo quy định tại khoản 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp

[9]. Bổ sung theo quy định tại khoản 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[10]. Bổ sung theo quy định tại khoản 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

[11]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[12]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[13]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[14]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[15]. Quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật Giám định tư pháp; khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[16]. Quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[17].  Điều 23 Luật Giám định tư pháp, Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Điều 57 Luật Tố tụng hành chính 2015.

[18]. Chương XX, Chương XXI, Chương XII Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Chương XIV, Chương XV Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Chương X Luật Tố tụng hành chính 2015.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày