Một trong những nội dung đáng chú ý được đề cập trong Nghị định 75/2019/NĐ-CP là việc bổ sung các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực cạnh tranh.
Điều 4 Nghị định này quy định mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh (hành vi xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, lôi kéo khách hàng bất chính, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác…) là 2 tỷ đồng. Trong khi đó, mức phạt tối đa đối với các hành vi khác vi phạm quy định của Nghị định này là 200 triệu đồng.
Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền là 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng thấp hơn mức phạt tiền thấp nhất đối với tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế là 05% tổng doanh thu của doanhnghiệp vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
Trường hợp tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và khoản 2 của Điều 4 Nghị định này được xác định bằng 0 (không) thì áp dụng mức phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 200 triệu đồng.
Mức phạt tiền tối đa quy định tại Nghị định này áp dụng đối với hành vi vi phạm của tổ chức; đối với cá nhân có cùng hành vi vi phạm hành chính về cạnh tranh, mức phạt tiền tối đa bằng 1/2 mức phạt tiền tối đa đối với tổ chức.
Một nội dung mới khác đáng chú ý nữa là đối với các hình thức xử phạt bổ sung, so với quy định Nghị định 71/2014/NĐ-CP thì Khoản 2 Điều 3 Nghị định 75/2019/NĐ-CP đã bổ sung thêm một số hình thức xử phạt nhằm tăng tính răn đe, cụ thể hình thức xử phạt bổ sung mới bao gồm:
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng;
- Tịch thu tang vật vi phạm, phương tiện được sử dụng để vi phạm;
- Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương.
Bên cạnh đó, Nghị định này cũng đã sửa đổi về các biện pháp khắc phục hậu quả khi vi phạm hành chính về cạnh tranh, cụ thể:
- Buộc cải chính công khai;
- Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;
- Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;
- Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa thuận hoặc giao dịch kinh doanh;
- Buộc chia, tách, bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế;
- Buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp nhận sáp nhập, doanh nghiệp mua lại, doanh nghiệp mới hình thành sau tập trung kinh tế;
- Buộc cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu;
- Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã cản trở;
- Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;
- Buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng, hợp đồng đã thay đổi hoặc hủy bỏ mà không có lý do chính đáng;
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu.
Với các quy định trên sẽ giúp cho việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh được thực hiện có hiệu quả, khắc phục được những thiếu sót trong quy định cũ, hướng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh trong tương lai.