Tìm kiếm tin tức

 

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Thống kê lượt truy cập
Tổng truy cập 3.387.603
Truy cập hiện tại 15.204
PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN TRONG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Ngày cập nhật 11/09/2020

PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN TRONG QUY ĐỊNH

PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

 

Tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Ngày 07/11/2013, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký tham gia và ngày 28/11/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về chống tra tấn), Việt Nam đã cụ thể hóa các quy định của Công ước trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nước ta, trong đó đã lồng ghép, cụ thể hóa trong pháp luật về bình đẳng giới.

Các quy định pháp luật về bình đẳng giới được quy định trực tiếp, cụ thể nhất qua Luật Bình đẳng giới ngày 29 tháng 6 năm 2006.  Trước khi Luật Bình đẳng giới được ban hành, các quy định pháp luật liên quan đến bình đẳng giới được quy định trong nhiều văn bản pháp luật. Mặc dù đã có những quy định nhằm bảo đảm quyền bình đẳng, góp phần đáng kể vào công tác phòng, chống tra tấn, tuy nhiên, một số quy định pháp luật chưa cụ thể và rõ ràng, thiếu các quy định nhằm từng bước xoá bỏ các định kiến giới và chưa coi trọng đúng mức vấn đề bình đẳng giới trong gia đình; chưa quan tâm đến việc bù đắp khoảng trống cho phụ nữ do việc mang thai, sinh con và chăm sóc con thực tế đem lại. Một số quy định của chính sách, pháp luật hỗ trợ bảo đảm bình đẳng giới đã được ban hành, nhưng hầu hết đều nhằm vào việc tăng cường lực lượng lao động, rất ít các quy định thật sự tạo cơ hội khuyến khích tài năng, đãi ngộ xứng đáng cán bộ, lao động nữ. Thiếu quy định bảo đảm sự công bằng cho phụ nữ trong vai trò người mẹ không phụ thuộc vào nơi làm việc. Các quy định ưu đãi thuế cho doanh nghiệp sử dụng đông lao động nữ chưa cụ thể, thiếu căn cứ thực tế, nên hầu hết không được thực hiện, ngược lại tạo tâm lý làm cho các doanh nghiệp ngại sử dụng lao động nữ…

II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HƯỚNG ĐẾN PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG LĨNH VỰC BÌNH ĐẲNG GIỚI

Với sự ra đời của Luật Bình đẳng giới ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã đánh dấu một bước ngoạt quan trọng trong thực hiện công tác bình đẳng giới của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện rõ quan điểm, chủ trương về bình đẳng giới.

1. Mục tiêu, nguyên tắc, chính sách Nhà nước về bình đẳng giới

Trước hết, xác định mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình (Điều 4 Luật Bình đẳng giới).

Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới được xác định: Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới. Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới. Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật. Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân.

Nhà nước xác định các chính sách về bình đẳng giới là bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển. Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình. Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới. Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.

Như vậy, ngay trong mục tiêu, nguyên tắc và chính sách chung của Nhà nước đã xác định sự bình đẳng, tạo cơ hội phát triển cho cả nam và nữ, là tiền đề để thực hiện phòng, chống tra tấn trên cơ sở giới.

2. Trách nhiệm làm thay đổi nhận thức và tư tưởng định kiến giới, qua đó góp phần thực hiện phòng, chống tra tấn vì lý do giới.

Đồng thời, quy định trách nhiệm của các cấp, các ngành nhằm làm thay đổi nhận thức và tư tưởng định kiến giới vốn đã ăn sâu trong tiềm thức của người Châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng (Khoản 6 Điều 25; Khoản 5 Điều 28; Khoản 4 Điều 29; Điểm c, d, đ Khoản 2 Điều 31 ; Điểm a Khoản 2 Điều 32 ). Chính phủ phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và chỉ đạo các cơ quan hữu quan trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức của nhân dân về bình đẳng giới. Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức, chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục về giới và pháp luật về bình đẳng giới cho nhân dân địa phương. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, vận động nhân dân, hội viên, đoàn viên thực hiện bình đẳng giới. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội trong việc thực hiện bình đẳng giới tại cơ quan, tổ chức mình có trách nhiệm giáo dục về giới và pháp luật về bình đẳng giới cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động do mình quản lý; có biện pháp khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thực hiện bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức và gia đình; tạo điều kiện phát triển các cơ sở phúc lợi xã hội, các dịch vụ hỗ trợ nhằm giảm nhẹ gánh nặng lao động gia đình; cơ quan, tổ chức khác trong việc thực hiện bình đẳng giới tại cơ quan, tổ chức mình có trách nhiệm tổ chức các hoạt động tuyên truyền kiến thức về giới và pháp luật về bình đẳng giới cho các thành viên của cơ quan, tổ chức và người lao động.

Về phía Nhà nước, với trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Điều 8), thực hiện xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới; ban hành và tổ chức thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt động về bình đẳng giới; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới; thực hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo về bình đẳng giới; hợp tác quốc tế về bình đẳng giới.

Trong tổ chức triển khai Luật Bình đẳng giới, nghiêm cấm các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 10): Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới; phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức; bạo lực trên cơ sở giới; các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật.

3. Các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới

Để đảm bảo bình đẳng giới, thông qua 04 biện pháp thực hiện:

Một là, ban hành các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới (Điều 19). Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới gồm: Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng; đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam; hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam; quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam; quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam; quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam; các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động; Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ có thẩm quyền quy định biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, có trách nhiệm xem xét việc thực hiện biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và quyết định chấm dứt thực hiện khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được.

Hai là, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 20 - 22). Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Theo đó, việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới. Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới là một căn cứ quan trọng của việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể: Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bao gồm xác định vấn đề giới và các biện pháp giải quyết trong lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh; dự báo tác động của các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành đối với nữ và nam; xác định trách nhiệm và nguồn lực để giải quyết các vấn đề giới trong phạm vi văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, chuẩn bị báo cáo việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo các nội dung quy định và phụ lục thông tin, số liệu về giới có liên quan đến dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Cơ quan thẩm định văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung đánh giá bao gồm xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo; việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo; tính khả thi của việc giải quyết vấn đề giới được điều chỉnh trong dự án, dự thảo; việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng dự án, dự thảo theo các nội dung đã quy định.

Uỷ ban của Quốc hội phụ trách lĩnh vực giới có trách nhiệm tham gia với Hội đồng dân tộc, Uỷ ban khác của Quốc hội để thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua. Nội dung thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới bao gồm: Xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo; việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo; việc tuân thủ thủ tục và trình tự đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng dự án, dự thảo; tính khả thi của dự án, dự thảo để bảo đảm bình đẳng giới.

Ba là, thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới (Điều 23). Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới. Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới được đưa vào chương trình giáo dục trong nhà trường, trong các hoạt động của cơ quan, tổ chức và cộng đồng. Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới thông qua các chương trình học tập, các ấn phẩm, các chương trình phát thanh, truyền hình và các hình thức khác.

Bốn là, nguồn tài chính hoạt động bình đẳng giới (Điều 24).  Ngân sách nhà nước; đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân; các nguồn thu hợp pháp khác. Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới phải đúng mục đích, có hiệu quả và theo quy định của pháp luật.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về bình đẳng giới, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới (Điều 37 và 38)

Các hành vi vi phạm về bình đẳng giới bị xử lý theo quy định pháp luật (Điều 39 và 42). Việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới dựa trên nguyên tắc: mọi hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời. Việc xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để theo đúng quy định của pháp luật. Tuỳ tính chất, mức độ vi phạm, có các hình thức sau xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới: xử lý kỷ luật; xử lý hành chính; truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại.

4. Trách nhiệm thực hiện và bảo đảm các quy định của Luật bình đẳng giới, cũng là thực hiện một trong các giải pháp để phòng, chống tra tấn vì lý do giới

a) Trách nhiệm thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Khoản 1, Điểm a, b, d và đ Khoản 2 Điều 31 Luật Bình đẳng giới)

- Trong công tác tổ chức, cán bộ:

+ Bảo đảm cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nam, nữ bình đẳng trong việc làm, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm và hưởng phúc lợi.

+ Bảo đảm việc đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trên nguyên tắc bình đẳng giới.

- Trong hoạt động:

+ Xác định thực trạng bình đẳng giới, xây dựng và bảo đảm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức mình và có báo cáo hằng năm.

+ Bảo đảm sự tham gia của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nam, nữ trong xây dựng, thực thi pháp luật, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

+ Có biện pháp khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thực hiện bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức và gia đình.

+ Tạo điều kiện phát triển các cơ sở phúc lợi xã hội, các dịch vụ hỗ trợ nhằm giảm nhẹ gánh nặng lao động gia đình.

b) Trách nhiệm thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới của cơ quan, tổ chức khác (Khoản 1, Điểm b, c, d, đ, e và g Khoản 2 Điều 32 Luật Bình đẳng giới)

- Trong công tác tổ chức và hoạt động:

+ Phải bảo đảm cho nam, nữ bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng.

+ Báo cáo hoặc cung cấp kịp thời thông tin về bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền.

+ Đề xuất hoặc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về bình đẳng giới liên quan đến hoạt động của cơ quan, tổ chức mình.

- Chủ động hoặc phối hợp tham gia hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới:

+ Bố trí cán bộ hoạt động về bình đẳng giới.

+ Tổ chức nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu nhằm tăng cường bình đẳng giới.

+ Dành nguồn tài chính cho các hoạt động bình đẳng giới.

+ Tổ chức hệ thống nhà trẻ phù hợp để lao động nam, nữ kết hợp hài hoà giữa lao động sản xuất và lao động gia đình.

+ Hỗ trợ lao động nữ khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi.

+ Tạo điều kiện cho lao động nam nghỉ hưởng nguyên lương và phụ cấp khi vợ sinh con.

c) Trách nhiệm thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới của gia đình (Điều 33 Luật Bình đẳng giới)

- Tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình nâng cao nhận thức, hiểu biết và tham gia các hoạt động về bình đẳng giới.

- Giáo dục các thành viên có trách nhiệm chia sẻ và phân công hợp lý công việc gia đình.

- Chăm sóc sức khoẻ sinh sản và tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện làm mẹ an toàn.

- Đối xử công bằng, tạo cơ hội như nhau giữa con trai, con gái trong học tập, lao động và tham gia các hoạt động khác.

d) Trách nhiệm thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới của công dân nam, nữ (Điều 34 Luật Bình đẳng giới)

- Học tập nâng cao hiểu biết, nhận thức về giới và bình đẳng giới;

- Thực hiện và hướng dẫn người khác thực hiện các hành vi đúng mực về bình đẳng giới;

- Phê phán, ngăn chặn các hành vi phân biệt đối xử về giới;

- Giám sát việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới của cộng đồng, của cơ quan, tổ chức và công dân.

đ) Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến và giáo dục Luật bình đẳng giới (Khoản 6 Điều 25, Khoản 5 Điều 28, Khoản 4 Điều 29, điểm c Khoản 2 Điều 31, điểm a Khoản 2 Điều 32 Luật Bình đẳng giới): Chính phủ; Uỷ ban nhân dân các cấp; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên; cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan, tổ chức khác.

e) Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới (Khoản 4 Điều 25 , Khoản 6 Điều 26 , Khoản 3 Điều 27 và Khoản 4 Điều 28 Luật Bình đẳng giới): Chính phủ; cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); Bộ và cơ quan ngang bộ; Uỷ ban nhân dân các cấp.

h) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới (khoản 3 Điều 29 và Điều 36 Luật Bình đẳng giới): Quốc hội; Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; Hội đồng nhân dân; Đại biểu Hội đồng nhân dân; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên.

g) Cơ quan có trách nhiệm xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về bình đẳng giới (Khoản 6 Điều 26 , Khoản 4 Điều 28 Luật Bình đẳng giới): cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); Uỷ ban nhân dân các cấp; các chủ thể khác theo quy định của pháp luật về khiếu nại và tố cáo.

III. PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN TRÊN CƠ SỞ GIỚI TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC THEO LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI NĂM 2006

1. Trong lĩnh vực chính trị

a) Nguyên tắc bình đẳng giới (Khoản 1, 2 và 3 Điều 11 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.

- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.

- Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

b) Biện pháp nào thúc đẩy bình đẳng giới (Khoản 5 Điều 11 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

- Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

c) Hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị (Khoản 1 Điều 40 Luật Bình đẳng giới năm 2006 )

- Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp vì định kiến giới.

- Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới.

- Đặt ra và thực hiện quy định có sự phân biệt đối xử về giới trong các hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc trong quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.

2. Trong lĩnh vực kinh tế

a) Nguyên tắc bình đẳng giới (Khoản 1 Điều 12 Luật Bình đẳng giới năm 2006):  nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động.

b) Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế (Khoản 2 Điều 12 Luật Bình đẳng giới năm 2006 )

- Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật;

- Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật.

c) Hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế (Khoản 2 Điều 40 Luật Bình đẳng giới năm 2006 )

- Cản trở nam hoặc nữ thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động kinh doanh vì định kiến giới.

- Tiến hành quảng cáo thương mại gây bất lợi cho các chủ doanh nghiệp, thương nhân của một giới nhất định.

3. Trong lĩnh vực lao động

a) Nguyên tắc bình đẳng giới (Khoản 1, 2 Điều 13 Luật Bình đẳng giới năm 2006 )

- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.

- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.

b) Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động (Khoản 3 Điều 13 Luật Bình đẳng giới năm 2006 )

- Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;

- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;

- Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.

c) Hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động (Khoản 3Điều 40 Luật Bình đẳng giới năm 2006  )

- Áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới.

- Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ.

- Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình độ, năng lực vì lý do giới tính.

- Không thực hiện các quy định của pháp luật lao động quy định riêng đối với lao động nữ.

4. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

a) Nguyên tắc bình đẳng giới (Khoản 1, 2 và 3 Điều 14 Luật Bình đẳng giới năm 2006 )

- Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.

- Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo.

- Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.

b) Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo (Khoản 5 Điều 14 Luật Bình đẳng giới năm 2006 )

- Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo.

- Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.

c) Biện pháp hỗ trợ người mẹ (Khoản 4 Điều 14 Luật Bình đẳng giới năm 2006 ): nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.

d) Hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo (Khoản 4 Điều 40 Luật Bình đẳng giới năm 2006 )

- Quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ.

- Vận động hoặc ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính.

- Từ chối tuyển sinh những người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ.

- Giáo dục hướng nghiệp, biên soạn và phổ biến sách giáo khoa có định kiến giới.

5. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ

a) Nguyên tắc bình đẳng giới (Điều 15 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ.

- Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế.

b) Hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (Khoản 5 Điều 40 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Cản trở nam, nữ tham gia hoạt động khoa học, công nghệ.

- Từ chối việc tham gia của một giới trong các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ.

6. Trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao

a) Nguyên tắc bình đẳng giới (Điều 16 Luật Bình đẳng giới năm 2006) 

- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao.

- Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ văn hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin.

b) Hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin (Khoản 6 Điều 40 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Cản trở nam, nữ sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật, biểu diễn và tham gia các hoạt động văn hóa khác vì định kiến giới.

- Sáng tác, lưu hành, cho phép xuất bản các tác phẩm dưới bất kỳ thể loại và hình thức nào để cổ vũ, tuyên truyền bất bình đẳng giới, định kiến giới.

- Truyền bá tư tưởng, tự mình thực hiện hoặc xúi giục người khác thực hiện phong tục tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức.

7. Trong lĩnh vực y tế

a) Nguyên tắc bình đẳng giới (Khoản 1, 2 Điều 17 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.

- Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

b) Biện pháp hỗ trợ người mẹ (Khoản 3 Điều 17 Luật Bình đẳng giới năm 2006): phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.

c) Hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế (Khoản 7 Điều 40 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người khác không tham gia các hoạt động giáo dục sức khỏe vì định kiến giới.

- Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.

8. Trong gia đình

a) Nguyên tắc bình đẳng giới (Điều 18 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.

- Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình.

 - Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.

 - Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.

- Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.

b) Hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình (Điều 41 Luật Bình đẳng giới năm 2006)

- Cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính.

- Không cho phép hoặc cản trở thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới.

- Đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính.

- Hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới tính.

- Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới nhất định.

IV. MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG CHỐNG TRA TẤN TRÊN CƠ SỞ GIỚI TRONG CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT  

1. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ngày 21 tháng 11 năm 2007.

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Các hành vi bạo lực gia đình bao gồm:

- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;

- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

- Cưỡng ép quan hệ tình dục;

- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;

- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;

- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;

- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

 Hành vi bạo lực nêu trên cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng.

Công tác phòng, chống bạo lực gia đình trên cơ sở nguyên tắc kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.

Người có hành vi bạo lực gia đình có nghĩa vụ tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực; chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối; bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.

Nạn nhân bạo lực gia đình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình; yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định; được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật; được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định; các quyền khác theo quy định của pháp luật. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.

Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, tài trợ cho hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình; phát triển các mô hình phòng ngừa bạo lực gia đình và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình. Khuyến khích việc nghiên cứu, sáng tác văn học, nghệ thuật về phòng, chống bạo lực gia đình. Tổ chức, hỗ trợ việc bồi dưỡng cán bộ làm công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà có thành tích thì được khen thưởng, nếu bị thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản thì được hưởng chế độ theo quy định của pháp luật.

 Nhà nước khuyến khích hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.  Nội dung hợp tác quốc tế bao gồm: Xây dựng và thực hiện chương trình, dự án, hoạt động về phòng, chống bạo lực gia đình; tham gia tổ chức quốc tế; ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình; trao đổi thông tin và kinh nghiệm về phòng, chống bạo lực gia đình.

Để triển khai thực hiện nghiêm túc Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nghiêm cấm những hành vi sau đây: Các hành vi bạo lực gia đình; cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình; sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình; trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình; cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình; lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật; dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình.

2. Luật Hôn nhân và gia đình ngày 19 tháng 06 năm 2014

Luật Hôn nhân và gia đình cũng đã trực tiếp quy định về các vấn đề liên quan đến quan hệ hôn nhân, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở bình đẳng, tiến bộ, làm tiền đề phòng ngừa các hành vi tra tấn trên cơ sở giới giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là trong quan hệ giữa vợ và chồng.

 Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cấm các hành vi: Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; yêu sách của cải trong kết hôn; cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; bạo lực gia đình; lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

 Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.

Trong quan hệ giữa vợ và chồng, pháp luật nêu rõ quyền và nghĩa vụ về nhân thân, về tài sản của mỗi bên. Về nhân thân, vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng được tôn trọng và bảo vệ.

Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính.

Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau. tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

 Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan. Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.

 Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật Hôn nhân và gia đình và các luật liên quan có quy định khác. Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.

Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy địnhchung về căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng và đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh (Điều 24 và Điều 25 của Luật Hôn nhân và gia đình). Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật Hôn nhân và gia đình thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.

Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng.

 Về tài sản, vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.

Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.

Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng.

Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình.

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

 Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng (Điều 26 của Luật Hôn nhân và gia đình); nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết  như sau: Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây: Bất động sản; động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.

Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.

Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây: Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường; nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp bị vô hiệu theo quy định tại Điều 42 của Luật Hôn nhân và gia đình; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định.

Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Trong trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định. Trong trường hợp Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện như sau: Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.

 Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.

Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây: Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng sau đây:  Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ; nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.

Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.

Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Khi giải quyết ly hôn, tài sản của vợ chồng được giải quyết theo nguyên tắc: Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng để giải quyết. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

 3. Luật Thi hành án hình sự năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2020)

Các quy định phòng, chống tra tấn trên cơ sở giới được quy định chi tiết và biểu hiện rõ qua các quy định về thi hành án hình sự.

- Bố trí khu giam giữ riêng cho phạm nhân nữ; phạm nhân có con dưới 36 tháng tuổi theo mẹ vào trại giam. Phạm nhân là người đồng tính, người chuyển đổi giới tính, người chưa xác định rõ giới tính có thể được giam giữ riêng.

- Về chế độ lao động, phạm nhân nữ được bố trí làm công việc phù hợp với giới tính; không được bố trí làm công việc không sử dụng lao động nữ theo quy định của pháp luật về lao động;  phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của pháp luật về lao động.

- Khi phạm nhân có vi phạm nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân hoặc có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị kỷ luật bằng một trong các hình thức sau đây: Khiển trách; cảnh cáo; giam tại buồng kỷ luật đến 10 ngày. Trong thời gian bị giam tại buồng kỷ luật, phạm nhân không được gặp thân nhân và có thể bị cùm chân. Không áp dụng cùm chân đối với phạm nhân nữ, phạm nhân là người dưới 18 tuổi, phạm nhân là người già yếu.

- Chế độ mặc và tư trang của phạm nhân: Phạm nhân được cấp quần áo theo mẫu thống nhất, khăn mặt, chăn, chiếu, màn, dép, mũ hoặc nón, xà phòng, kem và bàn chải đánh răng; phạm nhân nữ được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của phụ nữ. Phạm nhân tham gia lao động được cấp thêm quần áo để lao động và căn cứ vào điều kiện công việc cụ thể được cấp dụng cụ bảo hộ lao động cần thiết.

- Chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi: Phạm nhân nữ có thai nếu không được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì được bố trí nơi giam hợp lý, được khám thai định kỳ hoặc đột xuất, được chăm sóc y tế trong trường hợp cần thiết, được giảm thời gian lao động, được hưởng chế độ ăn, uống bảo đảm sức khỏe. Phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của pháp luật về lao động. Trong thời gian nghỉ sinh con, phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn theo chỉ dẫn của y sỹ hoặc bác sỹ, được cấp phát thực phẩm, đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh. Phạm nhân nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi được bố trí thời gian phù hợp để chăm sóc, nuôi dưỡng con. Trẻ em dưới 36 tháng tuổi, trẻ em từ 36 tháng tuổi trở lên trong thời gian chờ đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội là con của phạm nhân ở cùng mẹ trong trại giam được hưởng chế độ ăn, mặc, ở, cấp phát nhu yếu phẩm và được chăm sóc y tế, khám chữa bệnh để bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em theo quy định của Luật Trẻ em. Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục đề nghị đăng ký khai sinh cho con của phạm nhân. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phạm nhân chấp hành án có trách nhiệm đăng ký và cấp giấy khai sinh. Phạm nhân nữ có con từ 36 tháng tuổi trở lên phải gửi con về cho thân nhân nuôi dưỡng. Trường hợp con của phạm nhân không có thân nhân nhận nuôi dưỡng thì trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải đề nghị cơ quan chuyên môn về lao động, thương binh và xã hội thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi phạm nhân chấp hành án chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận, nuôi dưỡng. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị, cơ quan chuyên môn về lao động, thương binh và xã hội thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội có trách nhiệm tiếp nhận, nuôi dưỡng. Người chấp hành xong án phạt tù được nhận lại con đang được cơ sở bảo trợ xã hội nuôi dưỡng. Trại giam phải tổ chức nhà trẻ ngoài khu giam giữ để chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của phạm nhân dưới 36 tháng tuổi và con của phạm nhân từ 36 tháng tuổi trở lên trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội.

4. Bộ luật Lao động ngày 20 tháng 11 năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021).

Bộ Luật lao động dành Chương X quy định về lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới. Theo đó, Nhà nước  bảo đảm quyền bình đẳng của lao động nữ, lao động nam, thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ, lao động nam có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà. Có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình. Có chính sách giảm thuế đối với người sử dụng lao động có sử dụng nhiều lao động nữ theo quy định của pháp luật về thuế. Nhà nước có kế hoạch, biện pháp tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo ở nơi có nhiều lao động. Mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ có thêm nghề dự phòng và phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ.

Người sử dụng lao động có trách nhiệm bảo đảm thực hiện bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong tuyển dụng, bố trí, sắp xếp việc làm, đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác. Tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ. Bảo đảm có đủ buồng tắm và buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc. Giúp đỡ, hỗ trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần chi phí gửi trẻ, mẫu giáo cho người lao động.

 Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa trong trường hợp sau đây: Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp được người lao động đồng ý.  Lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai và có thông báo cho người sử dụng lao động biết thì được người sử dụng lao động chuyển sang làm công việc nhẹ hơn, an toàn hơn hoặc giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới. Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.

 Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi thì có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động thì phải thông báo cho người sử dụng lao động kèm theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. Trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn do người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động nhưng tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian tạm nghỉ thì hai bên thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.

 Lao động nữ được nghỉ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng; thời gian nghỉ trước khi sinh không quá 02 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 02 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu có nhu cầu, lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương sau khi thỏa thuận với người sử dụng lao động. Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 04 tháng nhưng người lao động phải báo trước, được người sử dụng lao động đồng ý và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc do người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Lao động nam khi vợ sinh con, người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, lao động nữ mang thai hộ và người lao động là người mẹ nhờ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Lao động được bảo đảm việc làm cũ khi trở lại làm việc sau khi nghỉ hết thời gian theo quy định tại các khoản 1, 3 và 5 Điều 139 của Bộ luật này mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích so với trước khi nghỉ thai sản; trường hợp việc làm cũ không còn thì người sử dụng lao động phải bố trí việc làm khác cho họ với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản.

Thời gian nghỉ việc khi chăm sóc con dưới 07 tuổi ốm đau, khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu, phá thai bệnh lý, thực hiện các biện pháp tránh thai, triệt sản, người lao động được hưởng trợ cấp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

 Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con. Người sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ thông tin về tính chất nguy hiểm, nguy cơ, yêu cầu của công việc để người lao động lựa chọn và phải bảo đảm điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động theo quy định khi sử dụng họ làm công việc thuộc danh mục nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con.

5 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017

a) Một số quy định tại Phần chung 

- Về nguyên tắc xử lý hình sự quy định tại Điều 3 BLHS đã quy định một loạt các nguyên tắc xử lý của chính sách hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội và một trong những nguyên tắc này đã thể hiện sâu sắc tinh thần của Hiến pháp về bình đẳng giới, đó là "Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội". Nguyên tắc xử lý này đã được cụ thể hóa trong các quy định cụ thể của BLHS liên quan đến phụ nữ là người phạm tội và các hành vi xâm hại phụ nữ.

- Liên quan đến quy định về che giấu tội phạm, BLHS hiện hành quy định  bất cứ người nào che giấu tội phạm đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm. Tuy nhiên, Điều 18 BLHS (sửa đổi) đã sửa quy định này theo hướng khẳng định rõ người che giấu tội phạm là Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác thuộc một số nhóm tội phạm cụ thể như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người khác, tội phạm về ma tuý, tội phạm về chức vụ  và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cụ thể khác. Quy định này xuất phát từ văn hóa của người Việt Nam về tình cảm thiêng liêng trong gia đình người Việt Nam, mối quan hệ gắn kết, chặt chẽ giữa những người thân ruột thịt trong gia đình. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì mọi công dân Việt Nam có nghĩa vụ và trách nhiệm trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do vậy,  BLHS đã giới hạn trong phạm vi hẹp những tội mà ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội sẽ không bị xử lý hình sự nếu không tố giác (Điều 18 dự thảo BLHS).

- Cùng với sửa đổi quy định về che giấu tội phạm, BLHS (sửa đổi) cũng loại trừ trách nhiệm hình sự đối với ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội nếu những người này không tố giác tội phạm.

- Các quy định về hệ thống hình phạt, BLHS (sửa đổi) đã có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ, thể hiện ở một số điểm sau:

    Thứ nhất, hình phạt cải tạo không giam giữ (Điều 36 BLHS) quy định trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần. Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

 Thứ hai, về hình phạt tử hình (Điều 39 BLHS), BLHS (sửa đổi) tiếp tục thể hiện chính sách nhân đạo, bảo vệ và hỗ trợ người mẹ - một thiên chức của người phụ nữ, đã có một số quy định đặc thù riêng đối với phụ nữ là người phạm tội, đặc biệt là những quy định liên quan đến việc áp dụng hình phạt tử hình đối với họ. Theo đó, hình phạt tử hình sẽ không áp dụng đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trường hợp này thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.

- Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 51 và Điều 52 BLHS (sửa đổi)),  đã có một số quy định nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của phụ nữ, cụ thể:

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Điều 51 BLHS (sửa đổi) quy định người phạm tội là phụ nữ có thai là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bởi lẽ, trong thời gian có thai, tâm sinh lý của người phụ nữ có những thay đổi nhất định, dễ có khả năng dẫn tới không kiểm soát được hành vi trong những thời điểm nhất định.

Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Điều 52 BLHS (sửa đổi) quy định trường hợp phạm tội đối với phụ nữ có thai là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội

- Quy định về hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 67 và Điều 68 BLHS (sửa đổi)), cùng với việc không áp dụng và không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, BLHS (sửa đổi) còn có những quy định cho đối tượng này được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Theo đó, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nếu chưa chấp hành hình phạt tù sẽ được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi con đủ 36 tháng tuổi (Điều 67 BLHS). Trường hợp phụ nữ đang chấp hành hình phạt tù mà có thai hoặc phải nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 68 BLHS).

b) Một số quy định tại phần các tội phạm

* Đối với phụ nữ là người phạm tội

 BLHS (sửa đổi) quy định tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124) là một trường hợp giảm nhẹ đặc biệt trách nhiệm hình sự về hành vi giết người. Trong trường hợp này, BLHS đã nhìn nhận việc người mẹ giết con mới đẻ do ảnh hưởng từ việc sinh đẻ. Lúc này, tâm sinh lí không bình thường, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn bị hạn chế do tác động của việc sinh con. Người mẹ do chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu (như do chịu ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ hoặc do hủ tục của cộng đồng dân cư nơi sinh sống) hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt chi phối (như người mẹ sinh con trong hoàn cảnh vô gia cư, thất nghiệp hoặc bản thân đang bị bệnh hiểm nghèo…) mà giết con mới đẻ  hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết là yếu tố giảm nhẹ trách nhiệm hình sự so với những trường hợp giết người thông thường. 

    * Phụ nữ là nạn nhân của tội phạm

- Các tội phạm xâm hại phụ nữ

  BLHS quy định một số tội phạm nhằm bảo vệ người phụ nữ, cụ thể là nhóm tội xâm phạm tình dục, danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của phụ nữ, cụ thể:

 Thứ nhất, đối với nhóm các tội xâm hại tình dục phụ nữ,  BLHS đã quy định một số tội danh cụ thể, bao gồm tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143),  tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), để bảo đảm bao quát hết các hình thức xâm hại tình dục đang xảy ra trong thực tiễn, phản ánh đúng bản chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội,  BLHS (sửa đổi) đã mở rộng nội hàm của hành vi "giao cấu theo hướng dấu hiệu cấu thành của các tội phạm này không chỉ là thực hiện hành vi giao cấu mà còn bao gồm cả việc "thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác". Như vậy, với quy định này sẽ bao quát được các hình thức giao cấu khác nhau, không chỉ là việc giao cấu theo cách hiểu truyền thống mà bao gồm cả những hình thức giao cấu khác như sử dụng các vật thể hoặc bộ phận cơ thể đưa vào hậu môn hoặc miệng của nạn nhân.

 Thứ hai, đối với nhóm tội phạm về mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

BLHS hiện hành quy định 2 tội danh liên quan đến mua bán người, đó là tội mua bán người (Điều 119) và tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120). Tuy nhiên, qua nghiên cứu chuẩn mực quốc tế về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em thì có thể nhận thấy, pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều khoảng cách so với yêu cầu của các chuẩn mực quốc tế về vấn đề này và điều này đã dẫn đến một số bất cập, hạn chế trong việc xử lý người phạm tội. Do vậy, BLHS đã sửa đổi 02 tội danh về mua bán người (Điều 150) và tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151)  

 Thứ ba, liên quan đến vấn đề mại dâm, để bảo vệ các quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em gái,  BLHS (sửa đổi) cũng tiếp tục quy định 03 tội danh liên quan đến vấn đề này, đó là tội chứa mại dâm (Điều 327), tội môi giới mại dâm (Điều 328) và tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329).

Thứ tư, đối với nhóm tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình: BLHS (sửa đổi) đã quy định một số tội danh nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em gái, đó là Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện (Điều 181), tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182), tội tổ chức tảo hôn (Điều 183), Tội loạn luân (Điều 184), Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình (Điều 185, Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 186). Đặc biệt, BLHS (sửa đổi) đã bổ sung thêm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187) để bảo vệ hơn nữa các quyền và lợi ích của người phụ nữ.

Thứ năm, để đảm bảo các quyền và lợi ích của phụ nữ, như quyền bình đẳng của phụ nữ được tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội; quyền bảo đảm về sức khỏe, BLHS (sửa đổi) vẫn tiếp tục duy trì tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ tại Điều 165 và tội phá thai trái phép tại Điều 316.

- Xâm hại phụ nữ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Quán triệt tinh thần của Hiến pháp về đảm bảo quyền bình đẳng giới, bảo vệ các quyền và lợi ích của nhóm người yếu thế trong xã hội, bao gồm phụ nữ và trẻ em gái, BLHS (sửa đổi) đã quy định một số hành vi xâm hại phụ nữ hoặc trẻ em là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ở một số tội phạm cụ thể, bao gồm:

+ Tội giết người với tình tiết giết phụ nữ mà biết là đang có thai; giết người dưới 16 tuổi (khoản 1 Điều 123);

+ Tội cố ý gây thương thích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác với tình tiết đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai (các khoản 1, 2 và 3 Điều 131)

+ Tội hành hạ người khác với tình tiết đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là đang có thai (khoản 2 Điều 140);

+ Các tội hiếp dâm/hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm/ cưỡng dâm người dưới 16 tuổi và tội giao cấu với người dưới 16 tuổi với tình tiết làm nạn nhân có thai;

+ Các tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật với tình tiết đối với trẻ em, phụ nữ mà biết là đang có thai;

+ Các tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy, tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy với tình tiết đối với phụ nữ mà biết là đang có thai;

+ Tội bắt cóc con tin với tình tiết đối với phụ nữ mà biết là đang có thai, người dưới 18 tuổi;

+ Các tội dùng nhục hình và tội bức cung với tình tiết đối với phụ nữ mà biết là đang có thai.

6. Luật xử lý vi phạm hành chính: (1) quy định người vi phạm hành chính là phụ nữ mang thai là tình tiết giảm nhẹ; (2) vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai là tình tiết tăng nặng. (3) Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện và phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận. (4) Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi; người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện; phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận. (5) Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện; phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận. (6) Quy định nguyên tắc khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến.

IV. KẾT LUẬN

Thực hiện Luật Bình đẳng giới và các văn bản pháp luật liên quan, công tác bình đẳng giới đã được những kết quả tích cực, là căn cứ quan trọng để thực hiện phòng, chống tra tấn trên cơ sở giới.

Công tác tuyên truyền pháp luật bình đẳng giới được các cấp, các ngành quan tâm đã truyền tải các kiến thức, nhận thức về giới, bình đẳng giới và pháp luật trực tiếp cho các nhóm đối tượng. Thông qua nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới đã giúp cho các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, nhân dân thấy rõ thực trạng bình đẳng giới, có những suy nghĩ và hành động tích cực cải thiện nhận thức đúng về bình đẳng giới đối với sự phát triển xã hội, cộng đồng.

Công tác tuyên truyền về bình đẳng giới đã góp phần làm chuyển biến nhận thức và hành vi của cộng đồng dân cư về giới và bình đẳng giới trong quan hệ đối xử giữa nam và nữ, trong thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, về vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội; góp phần thay đổi các nhìn nhận, đánh giá về phụ nữ và bản thân phụ nữ tự nhìn nhận đáng giá mình theo hướng tiến bộ. Đồng thời, vấn đề bình đẳng giới cũng được quan tâm thể hiện trong nhiều hoạt động của từng cơ quan và các chương trình, dự án kinh tế - xã hội khác ở các cấp, các ngành, các địa phương.

Bên cạnh kết quả đạt được, còn tồn tại một số hạn chế trong thực hiện bình đẳng giới, như: Tư tưởng, tư duy, nhận thức, thái độ và hành vi mang tính định kiến giới còn tồn tại khá phổ biến trong phần lớn nhân dân và cán bộ, công chức; thiếu thông tin, dữ liệu tách biệt theo giới tính ở tất cả các lĩnh vực; thiếu tài liệu về bình đẳng giới để giúp các chủ thể hiểu rõ và thống nhất về nội hàm của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này, phục vụ công tác phổ biến, giáo dục và thực hiện Luật bình đẳng giới có hiệu quả; thiếu nguồn lực để phổ biến, giáo dục pháp luật mang tính chuyên sâu, sau phổ biến, giáo dục có thể thực hiện được ngay những quy định của Luật Bình đẳng giới; thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức chuyên môn có nhạy cảm giới và trách nhiệm giới; thiếu chuyên gia hiểu biết thấu đáo, toàn diện về giới, bình đẳng giới, Luật Bình đẳng giới và những vấn đề có liên quan; thiếu hướng dẫn kỹ năng lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các hoạt động và trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; phụ nữ hiểu biết những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích của mình  hạn chế, còn tự ti, an phận, chấp nhận thiệt thòi; đầu tư cho trẻ em gái trong học tập ở vùng nông thôn, khó khăn, vùng sâu, xa, dân tộc thiểu số chưa có sự cải thiện.

Từ thực tế trên, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, cần triển khai một số giải pháp chính sau đây:

- Tiếp tục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho cán bộ, công chức và người dân.

 - Nâng cao chất lượng lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong việc thực hiện Luật Bình đẳng giới và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành.

          - Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới từ trung ương đến địa phương

- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.

 

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày