Tìm kiếm tin tức

 

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Thống kê lượt truy cập
Tổng truy cập 3.387.603
Truy cập hiện tại 3.385
ĐỀ CƯƠNG QUYỀN DÂN SỰ, CHÍNH TRỊ TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRẺ EM
Ngày cập nhật 11/09/2020

ĐỀ CƯƠNG

QUYỀN DÂN SỰ, CHÍNH TRỊ TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRẺ EM

                                                                               

Quyền con người nói chung và quyền dân sự, chính trị của trẻ em nói riêng được thể hiện qua các quy định pháp luật có liên quan đến trẻ em, đặc biệt là trong Luật trẻ em năm 2016. Các quyền này thể hiện cơ bản qua các nội dung: Khái niệm và quy định về độ tuổi của trẻ em; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và tháng hành động vì trẻ em; quyền và nghĩa vụ của trẻ em; các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của trẻ em.

I. KHÁI NIỆM “TRẺ EM”

Khái niệm trẻ em được quốc tế sử dụng thống nhất và đã được đề cập trong Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924, Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1959, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968, Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989, Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc năm 1976. Theo đó, trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Trẻ em là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục (BVCSGD) đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người, trẻ em có những đặc điểm cơ bản trong mỗi nhóm tuổi nhất định.

a) Theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, thì “Trẻ em là người dưới 18 tuổi”.

b) Theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật Trẻ em năm 2016 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2017): “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”

Như vậy, so với Luật năm 2004 thì khái niệm trẻ em hiện nay có sự khác biệt về phạm vi, cụ thể: Ngoài việc bảo đảm quyền của trẻ em là công dân Việt Nam, Việt Nam ghi nhận các quyền trẻ em đồng thời là quyền con người của mọi trẻ em, không phân biệt quốc tịch đang cư trú tại Việt Nam; Luật này sẽ áp dụng đối với mọi trẻ em, trong đó gồm trẻ em là công dân Việt Nam, trẻ em là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, trẻ em là người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam để bảo đảm quyền của các em.

Bàn thêm về độ tuổi trẻ em: Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật Trẻ em, nhiều ý kiến đề nghị nâng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi, vì:

Thứ nhất, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên của châu Á ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Đầu năm 2015, trong 66 quốc gia mà chúng ta có được thông tin thì có 10 quốc gia quy định độ tuổi trẻ em bằng và cao hơn 18 tuổi, chỉ có tám quốc gia quy định thấp hơn 18 tuổi, trong đó có Việt Nam. Ở châu Á có ba quốc gia quy định độ tuổi trẻ em dưới mức 18, gồm Việt Nam, Myanmar, Singapore. Ủy ban Quyền trẻ em của Liên Hiệp Quốc cũng kiến nghị Việt Nam nên quy định trẻ em từ 18 trở xuống. Việt Nam đã ký Công ước trẻ em nên cần cam đoan thực hiện theo lộ trình quốc tế.

Thứ hai, người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ về sức khỏe, nhận thức, cần có sự quan tâm của Nhà nước. Theo khoa học và ngay cả Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam cũng đã có nghiên cứu, chứng minh điều này.

Thứ ba, theo các đại biểu Quốc hội và thực tế hiện nay, khi tăng độ tuổi trẻ em sẽ không có ảnh hưởng quá nhiều. Hiến pháp 2013 (Điều 27) quy định công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử, công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. BLDS 2005 quy định người từ 18 tuổi trở lên là thành niên, là người lớn. BLHS, BLTTHS, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định người dưới 18 tuổi không phải chịu trách nhiệm như người thành niên. BLLĐ quy định người dưới 18 tuổi chỉ làm những công việc phù hợp để đảm bảo sức khỏe. Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Nghĩa vụ quân sự đều quy định thanh niên phải từ 18 tuổi trở lên…

Tuy nhiên, có không ít ý kiến phản đối, đề nghị giữ nguyên quy định về độ tuổi trẻ em, vì: Trên thế giới có nhiều nước cũng quy định khái niệm tuổi trẻ em từ dưới 18 tuổi trở xuống. Quy định này được xem là phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa, khoa học… của nhiều nước hiện đại trên thế giới. Đề xuất nâng tuổi trẻ em từ đủ 16 tuổi cho tới dưới 18 tuổi đúng là phù hợp với Công ước về quyền trẻ em nhưng lại không phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Thứ nhất, về góc độ xã hội. Việt Nam là nước đang phát triển, nguồn nhân lực đóng góp của toàn dân là rất quan trọng. Trong khi đó, độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi được xem là lứa tuổi đã dần hoàn thiện cả về trí và lực. Ở nhiều vùng nông thôn, độ tuổi 16-17 còn là lực lượng lao động chính trong gia đình. Xưa vẫn có câu: “thanh niên 17 bẻ gãy sừng trâu”, tức là lứa tuổi hoàn toàn có thể cáng đáng, đảm đương được nhiều công việc nặng nề rồi. Nếu nâng tuổi trẻ em từ đủ 16 lên dưới 18 tuổi nghĩa là sẽ làm thay đổi không nhỏ tới cơ cấu, thành phần lao động hiện nay trong xã hội. Làm mất đi quyền được làm việc và lao động của không ít những đứa trẻ khác.

Vì vậy, trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi tới dưới 18 tuổi nên chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn 1 từ đủ 14 tuổi tới dưới 16 tuổi thì được coi là trẻ em. Giai đoạn 2 từ đủ 16 tuổi tới dưới 18 tuổi là người chưa thành niên. Cần phải hiểu rằng, trẻ em là khái niệm chỉ sự trong sáng, ngây thơ, non nớt của những đứa trẻ chưa trưởng thành, chưa va vấp trong cuộc sống, xã hội. Trong khi đó, người chưa thành niên là những người đã có được sự hiểu biết nhất định, dù chưa thực sự đầy đủ nhưng cũng ở một mức độ tương đối rồi.

Theo các quy định của pháp luật hiện hành kể cả trong luật dân sự và luật hình sự của Việt Nam thực tế đều có quy định rất cụ thể với những người là trẻ em và những người chưa thành niên. Trong trường hợp những người chưa thành niên có những hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi phạm tội, quy định của pháp luật đã có thái độ khoan hồng, châm chước. Vì vậy, đề xuất nâng tuổi trẻ em cũng chưa chắc hẳn sẽ đảm bảo trẻ em được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục tốt hơn.

Thứ hai, xét trên phương diện quan hệ giữa các văn bản luật. Giữa luật này với luật khác trong hệ thống pháp luật luôn có sự ràng buộc chặt chẽ. Nếu nâng tuổi trẻ em sẽ phải sửa đổi hàng loạt văn bản pháp luật đi theo, cụ thể như Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Luật lao động; Luật thực hiện nghĩa vụ quân sự; Luật hôn nhân gia đình…

Nếu cứ coi dưới 18 tuổi là trẻ em, nghĩa là mọi nghĩa vụ, chính sách, cơ chế phải luôn coi họ là trẻ em và phải tuân thủ các điều ước quốc tế đối với quyền trẻ em. Ở đây sẽ phát sinh hai vấn đề, một là chi phí ngân sách dành cho người ở độ tuổi trẻ em là vô cùng lớn. Thứ hai, Việt Nam sẽ đối diện với tình trạng sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật … đây là bài toán rất khó, rất bất cập đối trong tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay.

Hơn nữa, ở nhiều nơi ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa ở nước ta, đồng bào dân tộc thiểu số còn mong muốn cho con cái được được lấy chồng, lấy vợ sớm. Nếu nâng tuổi trẻ em, nghĩa là tình trạng kết hôn trái pháp luật, tình trạng tảo hôn sẽ gia tăng rất nhiều, mà vốn dĩ rất khó thay đổi tư duy, tâm lý của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Hoặc sẽ phải đối diện với thực tế trẻ em vừa hết quyền trẻ em đã phải là người lớn. Họ không có khoảng thời gian lùi 2 năm như hiện tại để chuẩn bị tâm lý, tập làm người lớn.

Từ các luồng ý kiến này, Quốc hội thông qua Luật Trẻ em với quy định giữ nguyên độ tuổi trẻ em là dưới 16 tuổi.

c) Tương ứng với quy định về độ tuổi trẻ em, các Luật có liên quan cũng quy định:

- Luật Thanh niên gián tiếp thừa nhận điều này khi quy định “Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”.

- Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

- Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 18) quy định “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên.”

Từ các quy định trên, hai khái niệm “trẻ em” và “người chưa thành niên” không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Người chưa thành niên gồm có trẻ em (người dưới 16 tuổi) và nhóm người từ 16 đến dưới 18 tuổi. Điều này có nghĩa là: Tất cả trẻ em công dân Việt Nam đều là người chưa thành niên nhưng không phải tất cả người chưa thành niên đều là trẻ em.

II. TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT VÀ THÁNG HÀNH ĐỘNG VÌ TRẺ EM

1. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

Các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được quy định nhằm bảo đảm quyền của trẻ em được thực hiện tốt nhất. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định chi tiết và có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với từng nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Luật Trẻ em nêu rõ 14 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có bổ sung các nhóm mới so với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, như: Trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; trẻ em bị bóc lột; trẻ em bị mua bán; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm sóc. Cụ thể 14 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt sau đây:

(1) Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ;

(2) Trẻ em bị bỏ rơi;

(3) Trẻ em không nơi nương tựa;

(4) Trẻ em khuyết tật;

(5) Trẻ em nhiễm HIV/AIDS;

(6) Trẻ em vi phạm pháp luật;

(7) Trẻ em nghiện ma túy;

(8) Trẻ em phải bỏ học kiếm sống chưa hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở;

(9) Trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực;

(10) Trẻ em bị bóc lột;

(11) Trẻ em bị xâm hại tình dục;

(12) Trẻ em bị mua bán;

(13) Trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo;

(14) Trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm sóc.

2. Tháng hành động vì trẻ em

Tháng hành động vì trẻ em được tổ chức vào tháng 6 hằng năm để thúc đẩy phong trào toàn dân chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; tuyên truyền, phổ biến, vận động cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân thực hiện chính sách, chương trình, kế hoạch, dự án, xây dựng các công trình và vận động nguồn lực cho trẻ em.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để chỉ đạo, tổ chức và hướng dẫn thực hiện Tháng hành động vì trẻ em.

III. QUYỀN VÀ BỔN PHẬN CỦA TRẺ EM

Trẻ em có các quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định. Công ước quyền trẻ em với 54 điều quy định các quyền trẻ em theo bốn nhóm quyền là: quyền được sống còn, quyền được bảo vệ; quyền được phát triển và quyền được tham gia. Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận quyền trẻ em và kêu gọi các quốc gia bảo đảm quyền của trẻ em như là quyền của con người chưa phát triển về thể lực, trí tuệ và kêu gọi toàn thể nhân loại hãy bảo đảm cho tất cả trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn.

Song trẻ em là người chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí tuệ, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Do đó, để trẻ em làm chủ các quyền phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em thì Luật Trẻ em quy định các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em, trong đó lựa chọn 24 nhóm quyền cơ bản nhất, đặc trưng nhất đối với trẻ em. Cách tiếp cận này tạo điều kiện để trẻ em dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện và tập trung vào những quyền cơ bản gắn liền với cuộc sống hàng ngày của trẻ em. Việc thực hiện đầy đủ, hợp lý các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em sẽ tạo cơ hội để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.

1. Quyền của trẻ em

1.1. Quyền sống

Quyền sống là quyền cơ bản của con người, được ghi nhận tại nhiều văn bản khác nhau mà cơ bản nhất là Hiến pháp 2013 “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19).   Đối với trẻ em cũng vậy, trẻ em nào sinh ra cũng có quyền sống, tính mạng của trẻ em phải được bảo vệ, không ai có quyền tước đi sinh mạng của trẻ em.

Điều 12 Luật Trẻ em quy định “Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển”.

1.2. Quyền được khai sinh và có quốc tịch

Điều 13 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được khai sinh, khai tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định của pháp luật”.

Đây là quyền hết sức cơ bản của trẻ em nhằm bảo đảm cho trẻ em thực hiện các quyền khác.

- Khai sinh, khai tử: Điều 30 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017) quy định: “1. Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh. 2. Cá nhân chết phải được khai tử. 3. Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu”.

Thời hạn đăng ký khai sinh: Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em (khoản 1 Điều 15 Luật Hộ tịch).

Thời hạn đăng ký khai tử: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người chết thì vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người chết có trách nhiệm đi đăng ký khai tử; trường hợp người chết không có người thân thích thì đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm đi khai tử (khoản 1 Điều 33 Luật Hộ tịch).

- Quyền có quốc tịch: Điều 31 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Cá nhân có quyền có quốc tịch. 2. Việc xác định, thay đổi, nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam do Luật quốc tịch Việt Nam quy định. 3. Quyền của người không quốc tịch cư trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được bảo đảm theo luật”.

- Xác định cha, mẹ: Cá nhân có quyền xác định cha mẹ (khoản 1 Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nêu rõ: “1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. 2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định”.

- Xác định dân tộc: Điều 29 Bộ luật Dân sự quy định: 1. Cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình. 2. Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.

Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó.

Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.

3. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp sau đây:

a) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;

b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình.

4. Việc xác định lại dân tộc cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi phải được sự đồng ý của người đó.

5. Cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam”.

- Xác định giới tính: Điều 36 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính. 2. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan”.

1.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe

Điều 14 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh”.

Trẻ em dưới sáu tuổi được Nhà nước cấp Thẻ khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập (sau đây gọi tắt là Thẻ khám bệnh, chữa bệnh). Đây là phương án thể hiện sự tiến bộ, tính ưu việt của chế độ ta. Thực hiện phương án này thì bất kỳ trẻ em nào dưới sáu tuổi, khi bị ốm đau dù là bệnh nặng hay nhẹ đều được khám bệnh, chữa bệnh và không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.

-  Trẻ em dưới sáu tuổi là trẻ em chưa đủ bảy mươi hai tháng tuổi.

- Cơ sở y tế công lập thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi gồm các cơ sở y tế thuộc Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan, đơn vị ở Trung ương và địa phương.

- Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thực hiện việc cấp, thu hồi Thẻ khám bệnh, chữa bệnh.

1.4. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng

Điều 15 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển toàn diện”.  Trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể có, với mức sống ngày càng được nâng cao là quyền của trẻ em và mục tiêu phấn đấu chung của gia đình, Nhà nước và xã hội.

1.5. Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu

Điều 16 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân. Trẻ em được bình đẳng về cơ hội học tập và giáo dục; được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo, phát minh”.

Quy định này là sự khẳng định chủ trương, chính sách và việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn nhằm phát huy tốt nhất năng lực, sở trường của trẻ em ngay từ nhỏ để hướng dẫn, bồi dưỡng và đào tạo để trở thành nhân tài phục vụ đất nước.

1.6. Quyền vui chơi, giải trí

Điều 17 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí; được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi”.

Vui chơi giải trí là nhu cầu của con người, song đối với trẻ em thì được pháp luật thừa nhận là một quyền, điều này xuất phát từ đặc điểm của trẻ em và xuất phát từ nhu cầu thực tiễn. Quyền vui chơi giải trí lành mạnh không những là nhu cầu mà còn là điều kiện để trẻ em phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần. Thực hiện quyền vui chơi, giải trí lành mạnh của trẻ em đòi hỏi phải thay đổi quan niệm cũ coi “vui, chơi, giải trí” là hoạt động của những kẻ “vô công rồi nghề”, những trẻ “hư”, sang quan niệm mới coi vui chơi, giải trí lành mạnh là một yếu tố để trẻ em khôn lớn, phát triển tốt hơn về thể chất và tinh thần. Các quốc gia trên thế giới xác định rằng, trong thời đại văn minh trí tuệ thì mọi người, kể cả trẻ em sẽ phải làm việc nhiều hơn bằng trí óc, làm việc bằng nội lực nhiều hơn lao động chân tay, nên con người sẽ mỏi mệt hơn, căng thẳng hơn, dễ dẫn đến stress hơn thì việc vui chơi, giải trí là liều thuốc bổ tạo nên sự thoải mái về tinh thần, cân bằng về sức khỏe. Vì vậy, thực hiện quyền vui chơi, giải trí của trẻ em chính là chuẩn bị tâm lý, sự năng động, sự thích nghi trong một xã hội công nghiệp với hoạt động trí óc là chủ yếu.

Vấn đề quan trọng để thực hiện quyền trẻ em về vui chơi, giải trí là việc tổ chức vui chơi, giải trí một cách khoa học, có văn hoá để mọi trẻ em đều được "chơi mà học, học mà chơi" nhằm phát triển nhân cách toàn diện. Vui chơi, giải trí gắn liền trong học tập, trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao ở mọi nơi, mọi lúc phù hợp với từng lứa tuổi của trẻ em. Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của trẻ em và thực hiện quyền trẻ em được hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao là mục tiêu, biện pháp quan trọng của chiến lược con người.

1.7. Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc

Điều 18 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được tôn trọng đặc điểm và giá trị riêng của bản thân phù hợp với độ tuổi và văn hóa dân tộc; được thừa nhận các quan hệ gia đình. Trẻ em có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc, phát huy truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc mình”.

Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc là quyền chung của tất cả mọi người được quy định tại Hiến pháp năm 2013 “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình” (khoản 3 Điều 5). Với trẻ em, quyền này cũng được bảo đảm thực hiện.

1.8. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Điều 19 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào và phải được bảo đảm an toàn, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”.

1.9. Quyền về tài sản

Điều 20 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật”.

- Điều 75 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con”.

- Tài sản do lao động: Bộ luật lao động 2012 quy định (Điều 163, 164): Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không được làm quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 1 tuần. Được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm trong một số công việc nhất định theo quy định.

Người lao động từ đủ 13 tuổi đến 15 tuổi chỉ được làm công việc nhẹ theo danh mục được quy định. Thời giời làm việc không quá 04 giờ trong 1 ngày vào 20 giờ trong 1 tuần; không được làm ban đêm, làm thêm giờ.

Không được sử dụng người lao động chưa thành niên sản xuất và kinh doanh cồn, rượi, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện khác.

- Tài sản do thừa kế: Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.

Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định  “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động”.

 Khoản 1 Điều 660 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về phân chia di sản theo pháp luật: Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng..

Như vậy, quyền có tài sản, quyền thừa kế được các văn bản pháp luật có liên quan quy định nhằm bảo đảm sự bình đẳng của mọi chủ thể trong xã hội, trong đó có trẻ em. Tuy nhiên, do trẻ em chưa đủ khả năng quản lý, định đoạt tài sản riêng, nên pháp luật cũng đã quy định trách nhiệm của cha, mẹ đối với con dưới 15 tuổi trong việc quản lý và định đoạt tài sản riêng của con. Đồng thời, pháp luật cũng quy định nghĩa vụ đối với con từ đủ 15 tuổi trở lên còn chung sống với cha mẹ thì có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình, nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình.

1.10. Quyền bí mật đời sống riêng tư

Quyền bí mật đời tư là quyền chung của mọi người, và quyền này của trẻ em cũng được pháp luật bảo vệ.

Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền bí mật đời tư: “1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

Điều 21 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư”.

1.11. Quyền được sống chung với cha, mẹ

Điều 22 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được sống chung với cha, mẹ; được cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Khi phải cách ly cha, mẹ, trẻ em được trợ giúp để duy trì mối liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ, gia đình, trừ trường hợp không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”.

Điều 41 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định nơi cư trú của người chưa thành niên, trong đó bao gồm cả trẻ em:  Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.

Theo quy định của pháp luật thì cha mẹ có nghĩa vụ và quyền sống chung với con. Như vậy, cả cha mẹ và con chưa thành niên đều có quyền sống chung, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em.

Quy định này hoàn toàn phù hợp và cụ thể hóa thêm các quy định tại Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành. Theo các quy định đó thì: Quyền sống chung với cha mẹ là quyền tự nhiên, tất yếu và bất khả xâm phạm của mọi trẻ em, kể cả trong trường hợp trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng. Trong trường hợp cha mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ em. Về nguyên tắc, trẻ em dưới ba mươi sáu (36) tháng tuổi phải được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Người không nuôi dưỡng có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải có nghĩa vụ đóng góp nuôi dưỡng, giáo dục con.

Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ và trẻ em, trừ trường hợp người có thẩm quyền thực hiện pháp luật quyết định để bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ em. Người có thẩm quyền quyết định trẻ em phải cách ly cha mẹ trong trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục đối với con chưa thành niên hoặc trường hợp cha mẹ đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì trẻ em phải sống cách ly cha mẹ.

1.12. Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ

Điều 23 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được biết cha đẻ, mẹ đẻ, trừ trường hợp ảnh hưởng đến lợi ích tốt nhất của trẻ em; được duy trì mối liên hệ hoặc tiếp xúc với cả cha và mẹ khi trẻ em, cha, mẹ cư trú ở các quốc gia khác nhau hoặc khi bị giam giữ, trục xuất; được tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất cảnh, nhập cảnh để đoàn tụ với cha, mẹ; được bảo vệ không bị đưa ra nước ngoài trái quy định của pháp luật; được cung cấp thông tin khi cha, mẹ bị mất tích”.

1.13. Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi

Điều 24 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em được chăm sóc thay thế khi không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi”.

1.14. Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục

Điều 25 Luật quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục”.

Xâm hại tình dục trẻ em là hành vi có chủ ý để làm hài lòng, thỏa mãn nhu cầu tình dục của một người đối với trẻ em. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội. Hành vi xâm hại tình dục trẻ em bao gồm các hành vi phạm tội (hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với trẻ em) và các hành vi khiêu dâm, quấy rối tình dục trẻ em. Nhiều quốc gia trên thế giới quy định nghiêm cấm các hành vi quấy rối tình dục trẻ em (cho trẻ em tiếp xúc với ấn phẩm có nội dung khiêu dâm, sử dụng trẻ em trong ấn phẩm khiêu dâm, có lời nói hoặc hành động kích động tình dục trẻ em).

1.15. Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động

Điều 26 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em”.

Lạm dụng lao động trẻ em là việc sử dụng trẻ tham gia vào họat động kinh tế, làm ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi, sự phát triển của trẻ em, bắt trẻ em làm việc quá sớm, quá thời gian làm ảnh hưởng đến việc phát triển về thể lực, trí lực và nhân cách của trẻ em, thậm chí là bắt trẻ em phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại, những công việc trái với quy định của pháp luật, không trả công hoặc trả công tương xứng với lao động bỏ ra của trẻ em. Lạm dụng lao động trẻ em cũng có thể xảy ra ngay tại gia đình.

1.16. Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc

Điều 27 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em”.

1.17. Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt

Điều 28 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt”.

1.18. Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy

Điều 29 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.19. Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính

Điều 30 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật; không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác”.

1.20. Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang

Điều 31 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được ưu tiên bảo vệ, trợ giúp dưới mọi hình thức để thoát khỏi tác động của thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang”.

1.21. Quyền được bảo đảm an sinh xã hội

Điều 32 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam được bảo đảm an sinh xã hội theo quy định của pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nơi trẻ em sinh sống và điều kiện của cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em”.

1.22. Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội

Điều 33 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền tìm kiếm, thu nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật và được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành, nhu cầu, năng lực của trẻ em”.

1.23. Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp

Điều 34 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về các vấn đề liên quan đến trẻ em; được tự do hội họp theo quy định của pháp luật phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành và sự phát triển của trẻ em; được cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân lắng nghe, tiếp thu, phản hồi ý kiến, nguyện vọng chính đáng”.

1.24. Quyền của trẻ em khuyết tật

Điều 35 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự lực và hòa nhập xã hội”.

1.25. Quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn

Điều 36 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, trẻ em lánh nạn, tị nạn được bảo vệ và hỗ trợ nhân đạo, được tìm kiếm cha, mẹ, gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

2. Bổn phận của trẻ em

Trẻ em không chỉ có quyền mà còn phải có bổn phận. Việc quy định bổn phận của trẻ em trong Luật Trẻ em nhằm định hướng vào việc khuyên răn, giáo dục ý thức tự chấp hành của trẻ em. So với Luật năm 2004, Luật Trẻ em phát triển 5 nhóm bổn phận của trẻ em, chi tiết cụ thể từng bổn phận.

Các bổn phận của trẻ em đối với gia đình, nhà trường, cộng đồng, đất nước và chính bản thân các em được quy định cụ thể trong Luật Trẻ em phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân của Hiến pháp năm 2013, Năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng và phù hợp với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng con người Việt Nam trong bối cảnh mới.

1.1. Bổn phận của trẻ em đối với gia đình

- Kính trọng, lễ phép, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; yêu thương, quan tâm, chia sẻ tình cảm, nguyện vọng với cha mẹ và các thành viên trong gia đình, dòng họ.

- Học tập, rèn luyện, giữ gìn nề nếp gia đình, phụ giúp cha mẹ và các thành viên trong gia đình những công việc phù hợp với độ tuổi, giới tính và sự phát triển của trẻ em.

1.2. Bổn phận của trẻ em đối với nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác

- Tôn trọng giáo viên, cán bộ, nhân viên của nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác.

- Thương yêu, đoàn kết, chia sẻ khó khăn, tôn trọng, giúp đỡ bạn bè.

- Rèn luyện đạo đức, ý thức tự học, thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường, cơ sở giáo dục khác.

- Giữ gìn, bảo vệ tài sản và chấp hành đầy đủ nội quy, quy định của nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác.

1.3. Bổn phận của trẻ em đối với cộng đồng, xã hội

- Tôn trọng, lễ phép với người lớn tuổi; quan tâm, giúp đỡ người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai, trẻ nhỏ, người gặp hoàn cảnh khó khăn phù hợp với khả năng, sức khỏe, độ tuổi của mình.

- Tôn trọng quyền, danh dự, nhân phẩm của người khác; chấp hành quy định về an toàn giao thông và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ, giữ gìn, sử dụng tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường phù hợp với khả năng và độ tuổi của trẻ em.

- Phát hiện, thông tin, thông báo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật.

1.4. Bổn phận của trẻ em đối với quê hương, đất nước

- Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tôn trọng truyền thống lịch sử dân tộc; giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của quê hương, đất nước.

- Tuân thủ và chấp hành pháp luật; đoàn kết, hợp tác, giao lưu với bạn bè, trẻ em quốc tế phù hợp với độ tuổi và từng giai đoạn phát triển của trẻ em.

IV. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN VÀ BỔN PHẬN CỦA TRẺ EM

Luật Trẻ em quy định tổng quát về chính sách của nhà nước để bảo đảm về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo đảm điều kiện vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch và thông tin, truyền thông cho trẻ em. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng, thực hiện các chính sách về quyền trẻ em trong thực tế.

1. Nghiêm cấm các hành vi vi phạm quyền và bổn phận của trẻ em và biện pháp xử lý nếu vi phạm

Hệ thống pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định nghiêm cấm các hành vi vi phạm quyền con người, trong đó có quyền trẻ em và quy định các biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm đó. 

Điều 6 Luật trẻ em quy định 15 nhóm hành vi bị nghiêm cấm nhằm bảo đảm cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh (Luật năm 2004 quy định 10 nhóm hành vi bị nghiêm cấm). Đây là 15 nhóm hành vi vi phạm quyền trẻ em đặc thù đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của trẻ em. Ngoài các nhóm hành vi được quy định, các hành vi vi phạm khác làm tổn hại đến quyền và lợi ích của trẻ em đã được quy định và bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.

(1) Tước đoạt quyền sống của trẻ em

Quyền sống là quyền cơ bản của con người, được ghi nhận tại nhiều văn bản khác nhau mà cơ bản nhất là Hiến pháp 2013 “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19). Đối với trẻ em cũng vậy, trẻ em nào sinh ra cũng có quyền sống, tính mạng của trẻ em phải được bảo vệ, không ai có quyền tước đi sinh mạng của trẻ em.

Trường hợp vi phạm điều cấm này bị xử lý hình sự theo quy định của pháp luật.

Điều 93 và 94 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội giết người và tội giết con mới đẻ

Điều 93. Tội giết người: “1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết nhiều người; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; c) Giết trẻ em; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn.

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm”.

Điều 94. Tội giết con mới đẻ: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.

(2) Bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em

Các hành vi “Bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em” bị nghiêm cấm vì ảnh hưởng lớn đến quyền của trẻ em.

Cha mẹ không được bỏ rơi con, người giám hộ không được bỏ rơi trẻ em được giám hộ; gia đình và cộng đồng xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện cho trẻ em bị bỏ rơi, không nơi nương tựa được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Điều 134 Bộ luật Hình sự 1999 quy định Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản: “1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm;…”

(3) Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em

Trẻ em là đối tượng dễ bị lợi dụng, và dẫn bị tổn thương. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi xâm hại tình dục, hành vi bạo lực , lạm dụng, bóc lột dưới mọi hình thức đối với trẻ em. Mọi hành vi xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em đều sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Điều 112 Bộ luật Hình sự 1999 quy định Tội hiếp dâm trẻ em: “1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm: a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Có tổ chức; b) Nhiều người hiếp một người; c) Phạm tội nhiều lần; d) Đối với nhiều người; đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật  từ 61%trở lên; e) Biết mình bị nhiễm HIVmà vẫn phạm tội; g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

(4) Tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn

Tảo hôn là việc lấy vợ hoặc chồng khi một trong hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Việc hỗ trợ, xúi giục, cưỡng ép trẻ em tảo hôn ảnh hưởng đến cuộc sống và sự phát triển của trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng đã quy định cấm hành vi tảo hôn nói chung.

Điều 47 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 09 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định xử phạt hành chính đối với hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn: “1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.

2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó”.

Điều 148 Bộ luật Hình sự 1999 quy định tội Tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn: “Người nào có một trong các hành vi sau đây, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm:

a) Tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn;

b) Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó”.

(5) Sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác

Xuất phát từ độ tuổi và khả năng nhận thức còn hạn chế của trẻ em, nên việc dễ bị rủ rê, xúi giục, kích động,… là rất dễ xảy ra; việc lôi kết, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật gây nên hậu quả đối với người bị hại và với trẻ em.

(6) Cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình

Trẻ em có các quyền và bổn phận. Cha mẹ, gia đình và xã hội không được cản trở các em thực hiện các quyền và bổn phận của mình; tạo điều kiện để các em được thực hiện đầy đủ nhất.

(7) Không cung cấp hoặc che giấu, ngăn cản việc cung cấp thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho gia đình, cơ sở giáo dục, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.

Hành vi xâm hại trẻ em là hành vi vi phạm pháp luật. Và hành vi không cung cấp hoặc che giấu, ngăn cản việc cung cấp thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cũng là hành vi vi phạm pháp luật và bị xử lý theo quy định của pháp luật.

(8) Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em

Hành vi gắn liền với thực hiện nguyên tắc “Không phân biệt đối xử với trẻ em”. Trẻ em dù trong hoàn cảnh nào cũng cần được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và nghiêm cấm hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em.

(9) Bán cho trẻ em hoặc cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây nghiện, chất kích thích khác, thực phẩm không bảo đảm an toàn, có hại cho trẻ em

Hành vi bị nghiêm cấm này phù hợp với các quy định pháp luật liên quan về sử dụng rượu, bia, thuốc lá...

Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, việc quy định cấm bán cho trẻ em rượu, bia, thuốc lá có thể chưa được thông suốt trong nhận thức của một bộ phận nhân dân vì nhiều lý do khác nhau. Song, trẻ em còn ngây thơ, trong trắng và với nguyên tắc dành lợi ích tốt nhất cho trẻ em thì quy định cấm bán cho trẻ em rượu, bia, thuốc lá là cần thiết. Để quy định này đi vào cuộc sống, đòi hỏi cha mẹ, người lớn và xã hội phải thay đổi nhận thức, chấp nhận và thực hiện các hành vi theo quy định của pháp luật.

Điều 24 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013  của Chính phủ  quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế: Vi phạm quy định về bán thuốc lá: “1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi sử dụng thuốc lá khi chưa đủ 18 tuổi”.

Khoản 1 và điểm a, b khoản 2 Điều 32 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định: “1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi không treo biển thông báo không bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi tại điểm bán theo quy định.

2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi; b) Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi bán thuốc lá”.

Điểm b khoản 1 và điểm b khoản 4 Điều 45 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định: “1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: Bán sản phẩm rượu cho người chưa đủ 18 tuổi. Hình thức xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh phân phối, bán buôn hoặc bán lẻ sản phẩm rượu từ 01 tháng đến 03 tháng.

 

 

 

(10) Cung cấp dịch vụ Internet và các dịch vụ khác; sản xuất, sao chép, lưu hành, vận hành, phát tán, sở hữu, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi, trò chơi và những sản phẩm khác phục vụ đối tượng trẻ em nhưng có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em.

Hành vi này bị nghiêm cấm vì ảnh hưởng lớn đến sự phát triển lành mạnh cả về thể chất và tinh thần của trẻ em.

Điểm a, b khoản 2 Điều 54 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện quy định: “Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Khi cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin mà không thực hiện hoặc không có biện pháp ngăn ngừa trẻ em truy nhập trên môi trường mạng thông tin không có lợi đối với trẻ em theo quy định của pháp luật; b) Sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin mang nội dung không có lợi cho trẻ em nhưng không có dấu hiệu cảnh báo”.

(11) Công bố, Tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em.

Hành vi nghiêm cấm này nhằm mục đích bảo vệ trẻ em tránh khỏi các nguy cơ bị xâm hại và phù hợp với quy định chung về bí mật đời sống riêng tư được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015.

(12) Lợi dụng việc nhận chăm sóc thay thế trẻ em để xâm hại trẻ em; lợi dụng chế độ, chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ của tổ chức, cá nhân dành cho trẻ em để trục lợi.

 (13) Đặt cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, có nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ gần cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em hoặc đặt cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em gần cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, có nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ.

(14) Lấn chiếm, sử dụng cơ sở hạ tầng dành cho việc học tập, vui chơi, giải trí và hoạt động dịch vụ bảo vệ trẻ em sai mục đích hoặc trái quy định của pháp luật.

(15) Từ chối, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không kịp thời việc hỗ trợ, can thiệp, điều trị trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm, bị tổn hại thân thể, danh dự, nhân phẩm.

2. Các biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ em

a) Bảo đảm về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em

- Nhà nước có chính sách trợ cấp, trợ giúp, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn để thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em theo độ tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

- Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia trợ giúp, chăm sóc trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ về đất đai, thuế, tín dụng cho tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật.

b) Bảo đảm về chăm sóc sức khỏe trẻ em

- Nhà nước có chính sách phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ để hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

- Nhà nước bảo đảm thực hiện các biện pháp theo dõi sức khỏe định kỳ cho phụ nữ mang thai và trẻ em theo độ tuổi; chăm sóc dinh dưỡng, sức khỏe ban đầu và tiêm chủng cho trẻ em; phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em; tư vấn và hỗ trợ trẻ em trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục phù hợp với độ tuổi theo quy định của pháp luật.

- Ưu tiên tư vấn, bảo vệ, chăm sóc về sức khỏe, dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai, bà mẹ nuôi con dưới -- tháng tuổi và trẻ em, đặc biệt là trẻ em dưới -- tháng tuổi, trẻ em bị xâm hại phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ.

- Nhà nước có chính sách, biện pháp tư vấn, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh; giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là tử vong trẻ sơ sinh; xóa bỏ phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em.

- Nhà nước đóng, hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế phù hợp với độ tuổi, nhóm đối tượng và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ.

- Nhà nước có chính sách, biện pháp để trẻ em được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh và điều kiện vệ sinh cơ bản, bảo đảm an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật.

- Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ủng hộ, đầu tư nguồn lực để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

c) Bảo đảm về giáo dục cho trẻ em

- Nhà nước có chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được đi học, giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học; có chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được tiếp cận giáo dục phổ cập, giáo dục hòa nhập, được học nghề và giới thiệu việc làm phù hợp với độ tuổi và pháp luật về lao động.

- Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, bảo đảm công bằng về cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi trẻ em; giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật; có chính sách miễn, giảm học phí cho từng nhóm đối tượng trẻ em phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ.

- Chương trình, nội dung giáo dục phải phù hợp với từng độ tuổi, từng nhóm đối tượng trẻ em, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện và yêu cầu hội nhập; chú trọng giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và phát triển nhân cách, kỹ năng sống, tài năng, năng khiếu của trẻ em; giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho trẻ em.

- Nhà nước quy định môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường.

- Nhà nước có chính sách phù hợp để phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 0- tuổi và chính sách hỗ trợ để trẻ em trong độ tuổi được giáo dục mầm non phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ; khuyến khích, thu hút các nguồn đầu tư khác để phát triển giáo dục, đào tạo.

 d) Bảo đảm điều kiện vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch cho trẻ em

- Nhà nước có chính sách hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình văn hóa nghệ thuật; phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở cho trẻ em; có chính sách ưu tiên trẻ em khi sử dụng dịch vụ vui chơi, giải trí, thể thao, du lịch và tham quan di tích, thắng cảnh.

- Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, bố trí quỹ đất, đầu tư xây dựng điểm vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao cho trẻ em; bảo đảm điều kiện, thời gian, thời điểm thích hợp để trẻ em được tham gia hoạt động tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở.

- Nhà nước tạo điều kiện để trẻ em giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hóa tốt đẹp và được sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình.

- Nhà nước khuyến khích tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia ủng hộ, đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ trẻ em vui chơi, giải trí; khuyến khích sáng tạo, sản xuất đồ chơi, trò chơi cho trẻ em bảo đảm an toàn, lành mạnh, mang bản sắc văn hóa dân tộc.

đ) Bảo đảm thông tin, truyền thông cho trẻ em

- Nhà nước bảo đảm trẻ em được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, tìm hiểu, học tập, trao đổi kiến thức qua các kênh thông tin, truyền thông phù hợp.

- Các cơ quan thông tin, xuất bản phải dành tỷ lệ nội dung, thời điểm, thời lượng phát thanh, truyền hình, ấn phẩm phù hợp cho trẻ em. Thông tin, đồ chơi, trò chơi, chương trình phát thanh, truyền hình, nghệ thuật, điện ảnh có nội dung không phù hợp với trẻ em phải thông báo hoặc ghi rõ độ tuổi trẻ em không được sử dụng.

- Nhà nước khuyến khích phát triển thông tin, truyền thông phù hợp với sự phát triển toàn diện của trẻ em; sản xuất, đăng tải nội dung, thông tin với thời lượng thích hợp cho trẻ em dân tộc thiểu số.

3. Các biện pháp bảo vệ trẻ em

Luật Trẻ em quy định cụ thể các nội dung về các cấp độ bảo vệ trẻ em (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp) và trách nhiệm thực hiện; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.

Một trong những điểm mới nổi bật của Luật Trẻ em là quy định cụ thể các yêu cầu bảo vệ trẻ em; các cấp độ bảo vệ trẻ em; trách nhiệm cung cấp, xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.

Cấp độ bảo vệ trẻ em đó là phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp. Các biện pháp bảo vệ này được quy định một cách cụ thể, cùng với trách nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để bảo đảm trẻ em được an toàn, được hỗ trợ và can thiệp kịp thời khi có nguy cơ hoặc đang bị xâm hại.

a) Các yêu cầu bảo vệ trẻ em

- Bảo vệ trẻ em được thực hiện theo ba cấp độ sau đây:

(1) Cấp độ phòng ngừa: Cấp độ phòng ngừa gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với cộng đồng, gia đình và mọi trẻ em nhằm nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức về bảo vệ trẻ em, xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em, giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại hoặc rơi vào hoàn cảnh đặc biệt.

Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ phòng ngừa bao gồm: Tuyên truyền, phổ biến cho cộng đồng, gia đình, trẻ em về mối nguy hiểm và hậu quả của các yếu tố, hành vi gây tổn hại, xâm hại trẻ em; về trách nhiệm phát hiện, thông báo trường hợp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi; Cung cấp thông tin, trang bị kiến thức cho cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em, người làm việc trong cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em về trách nhiệm bảo vệ trẻ em, kỹ năng phòng ngừa, phát hiện các yếu tố, hành vi gây tổn hại, xâm hại trẻ em; Trang bị kiến thức, kỹ năng làm cha mẹ để bảo đảm trẻ em được an toàn; Giáo dục, tư vấn kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ em; Xây dựng môi trường sống an toàn và phù hợp với trẻ em.

(2) Cấp độ hỗ trợ: Cấp độ hỗ trợ bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em.

Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ hỗ trợ bao gồm: Cảnh báo về nguy cơ trẻ em bị xâm hại; tư vấn kiến thức, kỹ năng, biện pháp can thiệp nhằm loại bỏ hoặc giảm thiểu nguy cơ xâm hại trẻ em cho cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em, người làm việc trong cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em và trẻ em nhằm tạo lập lại môi trường sống an toàn cho trẻ em có nguy cơ bị xâm hại; Tiếp nhận thông tin, đánh giá mức độ nguy hại, áp dụng các biện pháp cần thiết để hỗ trợ trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi nhằm loại bỏ hoặc giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi; Hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo quy định của Luật Trẻ em; Hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và gia đình của trẻ em được tiếp cận chính sách trợ giúp xã hội và các nguồn trợ giúp khác nhằm cải thiện điều kiện sống cho trẻ em.

(3) Cấp độ can thiệp: Cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em và gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ can thiệp bao gồm: Chăm sóc y tế, trị liệu tâm lý, phục hồi thể chất và tinh thần cho trẻ em bị xâm hại, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần can thiệp; Bố trí nơi tạm trú an toàn, cách ly trẻ em khỏi môi trường, đối tượng đe dọa hoặc đang có hành vi bạo lực, bóc lột trẻ em; Bố trí chăm sóc thay thế tạm thời hoặc lâu dài cho trẻ em thuộc đối tượng quy định; Đoàn tụ gia đình, hòa nhập trường học, cộng đồng cho trẻ em bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi; Tư vấn, cung cấp kiến thức cho cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, các thành viên gia đình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt về trách nhiệm và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục hòa nhập cho trẻ em thuộc nhóm đối tượng này; Tư vấn, cung cấp kiến thức pháp luật, hỗ trợ pháp lý cho cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

 

b) Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em

Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em là cơ sở do cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập theo quy định của pháp luật; có chức năng, nhiệm vụ thực hiện hoặc phối hợp, hỗ trợ thực hiện một hoặc một số biện pháp bảo vệ trẻ em theo cấp độ phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp. Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em được tổ chức theo loại hình cơ sở công lập và cơ sở ngoài công lập. Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em bao gồm:

- Cơ sở có chức năng, nhiệm vụ chuyên biệt cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em;

- Cơ sở có một phần chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.

c) Quy định về chăm sóc thay thế nhằm bảo đảm trẻ em được sống trong môi trường gia đình và được chăm sóc thay thế khi không còn trong môi trường đó hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Các hình thức chăm sóc thay thế: 1. Chăm sóc thay thế bởi người thân thích. 2. Chăm sóc thay thế bởi cá nhân, gia đình không phải là người thân thích. 3. Chăm sóc thay thế bằng hình thức nhận con nuôi. Việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi. 4. Chăm sóc thay thế tại cơ sở trợ giúp xã hội.

Các trường hợp trẻ em cần chăm sóc thay thế: 1. Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em không nơi nương tựa. 2. Trẻ em không thể sống cùng cha, mẹ vì sự an toàn của trẻ em; cha, mẹ không có khả năng bảo vệ, nuôi dưỡng trẻ em hoặc chính là người xâm hại trẻ em. 3. Trẻ em bị ảnh hưởng của thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang cần được ưu tiên bảo vệ. 4. Trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ.

d) Trên cơ sở hệ thống hóa các nguyên tắc áp dụng đối với người chưa thành niên trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính theo các văn bản pháp luật hiện hành, luật đã cụ thể hóa các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.

- Các yêu cầu bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng: 1. Bảo đảm trẻ em được đối xử công bằng, bình đẳng, tôn trọng, phù hợp với độ tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em. 2. Ưu tiên giải quyết nhanh chóng các vụ việc liên quan đến trẻ em để giảm thiểu tổn hại đến thể chất và tinh thần của trẻ em. 3. Bảo đảm sự hỗ trợ của cha mẹ, người giám hộ, người đại diện hợp pháp khác đối với trẻ em trong suốt quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. 4. Người tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, luật sư, trợ giúp viên pháp lý phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với trẻ em; sử dụng ngôn ngữ thân thiện, dễ hiểu với trẻ em. 5. Bảo đảm quyền được bào chữa, trợ giúp pháp lý cho trẻ em. 6. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật và tái phạm của trẻ em thông qua việc kịp thời hỗ trợ, can thiệp để giải quyết các nguyên nhân, điều kiện vi phạm pháp luật, giúp trẻ em phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng. 7. Bảo đảm kịp thời cung cấp các biện pháp phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp an toàn, liên tục, đầy đủ, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh, độ tuổi, đặc Điểm tâm lý, sinh lý của từng trẻ em trên cơ sở xem xét và tôn trọng ý kiến, nguyện vọng, tình cảm và thái độ của trẻ em.8. Bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, kịp thời giữa các cơ quan, tổ chức, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, gia đình, cơ sở giáo dục với các cơ quan tiến hành tố tụng, xử lý vi phạm hành chính. 9. Ưu tiên áp dụng các biện pháp phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với trẻ em vi phạm pháp luật; biện pháp cưỡng chế và hạn chế tự do chỉ được áp dụng sau khi các biện pháp ngăn chặn, giáo dục khác không phù hợp. 10. Bảo đảm bí mật đời sống riêng tư của trẻ em; áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế trẻ em phải xuất hiện trước công chúng trong quá trình tố tụng.

- Các biện pháp bảo vệ trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em là người bị hại, trẻ em là người làm chứng:

(1) Trẻ em vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính; biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi được miễn trách nhiệm hình sự; hình phạt cải tạo không giam giữ; án treo theo quy định của Bộ luật hình sự; trẻ em đã chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hoặc tù có thời hạn được áp dụng các biện pháp bảo vệ sau đây nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật, phục hồi, tránh tái phạm:

+ Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và gia đình của trẻ em được tiếp cận chính sách trợ giúp xã hội và các nguồn trợ giúp khác nhằm cải thiện Điều kiện sống cho trẻ em.

 

+ Các biện pháp bảo vệ cấp độ can thiệp: Chăm sóc y tế, trị liệu tâm lý, phục hồi thể chất và tinh thần cho trẻ em bị xâm hại, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần can thiệp; tư vấn, cung cấp kiến thức pháp luật, hỗ trợ pháp lý cho cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

+ Tìm kiếm đoàn tụ gia đình nếu thuộc trường hợp không có nơi cư trú ổn định;

+ Áp dụng biện pháp chăm sóc thay thế theo quy định  trong trường hợp trẻ em không còn hoặc không xác định được cha mẹ; không thể sống cùng cha, mẹ; không xác định được nơi cư trú trong thời gian thực hiện quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính của cơ quan có thẩm quyền.

+ Hỗ trợ gia đình giám sát, quản lý, giáo dục trẻ em;

+ Các biện pháp bảo vệ khác quy định tại các điều 48, 49 và 50 của Luật này khi xét thấy thích hợp.

(2) Trẻ em là người bị hại và trẻ em là người làm chứng mà bị tổn hại về thể chất, tinh thần được áp dụng các biện pháp bảo vệ cấp độ hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và gia đình của trẻ em được tiếp cận chính sách trợ giúp xã hội và các nguồn trợ giúp khác nhằm cải thiện Điều kiện sống cho trẻ em; và các biện pháp bảo vệ cấp độ can thiệp.

(3) Trẻ em là người làm chứng được bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và bí mật đời sống riêng tư; hạn chế tối đa việc dẫn giải, gây áp lực về tâm lý.

- Phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em vi phạm pháp luật:  Cơ sở giam giữ, trường giáo dưỡng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em cư trú thực hiện các biện pháp sau đây nhằm chuẩn bị và thúc đẩy việc tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em vi phạm pháp luật: Duy trì mối liên hệ giữa trẻ em với gia đình; tổ chức học văn hóa, học nghề, kỹ năng sống cho trẻ em; xem xét, đánh giá quá trình chấp hành việc học tập, rèn luyện của trẻ em tại cơ sở giam giữ, trường giáo dưỡng để đề xuất với cơ quan có thẩm quyền giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù hoặc chấm dứt biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo quy định của pháp luật.

Chậm nhất là 02 tháng trước khi trẻ em chấp hành xong hình phạt tù, 01 tháng trước khi trẻ em chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ hoặc trường giáo dưỡng nơi trẻ em đang chấp hành hình phạt tù hoặc biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng có trách nhiệm thông báo và cung cấp thông tin có liên quan cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em về cư trú để chuẩn bị việc tiếp nhận và tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em.

 Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em cư trú có trách nhiệm chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện kế hoạch can thiệp, hỗ trợ và áp dụng biện pháp bảo vệ đối với trẻ em vi phạm pháp luật  bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính; biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi được miễn trách nhiệm hình sự; hình phạt cải tạo không giam giữ; án treo theo quy định của Bộ luật hình sự; trẻ em đã chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hoặc tù có thời hạn được áp dụng các biện pháp bảo vệ sau đây nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật, phục hồi, tránh tái phạm.

Cơ quan lao động - thương binh và xã hội, tư pháp, công an, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để hướng dẫn, giúp đỡ Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc thực hiện kế hoạch hỗ trợ, can thiệp và áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp khác đối với trẻ em.

4. Trẻ em tham gia vào các vấn đề của trẻ em

Chương V là nội dung mới của Luật để thể chế hóa quy định tại Hiến pháp năm 2013 “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”. Chương này quy định nội dung, phạm vi, hình thức trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em và biện pháp bảo đảm trong gia đình, nhà trường, cơ sở giáo dục khác và trong cộng đồng.

Để cơ chế giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em được khả thi và hiệu quả, Luật Trẻ em quy định rõ nhiệm vụ của tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em là Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam là tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em, giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em. Quy định này đáp ứng yêu cầu của Ủy ban quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc về có một cơ quan, tổ chức đứng ngoài cơ quan điều hành của Nhà nước nhằm bảo đảm tính khách quan, độc lập trong tiếng nói đại diện cho trẻ em.

a) Phạm vi, hình thức trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em

- Các vấn đề sau đây về trẻ em hoặc liên quan đến trẻ em phải có sự tham gia của trẻ em hoặc tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em tùy theo độ tuổi của trẻ em: Xây dựng và triển khai chương trình, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Xây dựng và thực hiện quyết định, chương trình, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Quyết định, hoạt động của nhà trường, cơ sở giáo dục khác, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; Áp dụng biện pháp, cách thức chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ trẻ em của gia đình.

- Trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em thông qua các hình thức sau đây: Diễn đàn, hội nghị, hội thảo, tọa đàm, cuộc thi, sự kiện; Thông qua tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em; hoạt động của Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động vì trẻ em; Hoạt động của câu lạc bộ, đội, nhóm của trẻ em được thành lập theo quy định của pháp luật; Tham vấn, thăm dò, lấy ý kiến trẻ em; Bày tỏ ý kiến, nguyện vọng trực tiếp hoặc qua kênh truyền thông đại chúng, truyền thông xã hội và các hình thức thông tin khác.

b) Bảo đảm sự tham gia của trẻ em trong gia đình

Cha mẹ và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm sau đây: Tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi, giải thích ý kiến, nguyện vọng của trẻ em phù hợp với độ tuổi, sự phát triển của trẻ em và điều kiện, hoàn cảnh của gia đình; Tạo điều kiện, hướng dẫn trẻ em tiếp cận các nguồn thông tin an toàn, phù hợp với độ tuổi, giới tính và sự phát triển toàn diện của trẻ em; Tạo điều kiện để trẻ em được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng đối với những quyết định, vấn đề của gia đình liên quan đến trẻ em; Không cản trở trẻ em tham gia các hoạt động xã hội phù hợp, trừ trường hợp vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.

c) Bảo đảm sự tham gia của trẻ em trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác

Nhà trường, cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm sau đây:

- Tổ chức và tạo điều kiện để trẻ em được tham gia các hoạt động Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, câu lạc bộ, đội, nhóm của trẻ em trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác; các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội;

- Cung cấp thông tin chính sách, pháp luật và quy định về giáo dục có liên quan đến học sinh; công khai thông tin về kế hoạch học tập và rèn luyện, chế độ nuôi dưỡng và các khoản đóng góp theo quy định;

- Tạo điều kiện để trẻ em được kiến nghị, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về chất lượng dạy và học; quyền, lợi ích chính đáng của trẻ em trong môi trường giáo dục và những vấn đề trẻ em quan tâm;

- Tiếp nhận ý kiến, kiến nghị, nguyện vọng của trẻ em, giải quyết theo phạm vi trách nhiệm được giao hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết đến trẻ em.

d) Tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em

- Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em.

- Tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em có nhiệm vụ sau đây: Tổ chức lấy ý kiến, kiến nghị của trẻ em; tổ chức để trẻ em được tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; Thường xuyên lắng nghe, tiếp nhận và tổng hợp ý kiến, kiến nghị của trẻ em; Chuyển ý kiến, kiến nghị của trẻ em tới các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết; Theo dõi việc giải quyết và phản hồi cho trẻ em về kết quả giải quyết ý kiến, kiến nghị; Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em; Hằng năm, báo cáo Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc thực hiện trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc xem xét, giải quyết ý kiến, kiến nghị của trẻ em.

đ) Bảo đảm để trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em

- Cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân có trách nhiệm để trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em quy định và bảo đảm các yêu cầu sau đây: Tạo môi trường an toàn, thân thiện, bình đẳng để trẻ em tham gia; Cung cấp đầy đủ thông tin các vấn đề về trẻ em và các vấn đề trẻ em quan tâm với nội dung, hình thức, biện pháp phù hợp; Khuyến khích sự tham gia của trẻ em; không trù dập, kỳ thị khi trẻ em bày tỏ ý kiến, nguyện vọng; Bảo đảm để trẻ em tham gia tự nguyện, chủ động, phù hợp với độ tuổi, giới tính và sự phát triển của trẻ em; Ý kiến, nguyện vọng của trẻ em và ý kiến của tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em phải được lắng nghe, tiếp nhận, xem xét, giải quyết và phản hồi đầy đủ, kịp thời, khách quan, trung thực.

- Hằng năm, Hội đồng nhân dân các cấp chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm tổ chức gặp mặt, đối thoại, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của trẻ em về các vấn đề trẻ em quan tâm.

- Chính phủ quy định chi tiết trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc bảo đảm để trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.

5. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em

Luật Trẻ em quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, bao gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và đặc biệt quy định trách nhiệm của gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục.

Công tác trẻ em liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương, do đó Luật Trẻ em quy định về Tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, điều hòa các hoạt động nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình thực hiện quyền trẻ em giữa các cơ quan ở Trung ương, các tổ chức, các địa phương./.

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày