Tìm kiếm tin tức
Quay lại12345Xem tiếp

 

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Thống kê lượt truy cập
Tổng truy cập 3.387.603
Truy cập hiện tại 6.626

MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Ngày cập nhật 11/09/2020

MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

 

Ở một nước mà quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” được coi trọng như ở nước ta thì hoạt động hòa giải ở cơ sở sẽ luôn là sợi dây vô hình, bền chặt, góp phần kết nối và giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc. 

I. Bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở

Hoạt động hòa giải cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định chủ trương, phát huy tinh thần dân chủ mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Nhà nước, coi trọng sự đồng thuận của nhân dân, tăng cường đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra các cơ quan Nhà nước giải quyết. Để hoạt động hòa giải trở về đúng tính chất là hoạt động tự quản của nhân dân, do nhân dân tự quyết định trong đó vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở là yếu tố quan trọng, góp phần dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,

Như vậy, không hành chính hóa hoạt động hòa giải ở cơ sở. Hoạt động này phát huy được tính tự quản của cộng đồng dân cư nhưng đồng thời hạn chế được sự tham gia của Nhà nước đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở, đồng thời nâng cao vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với công tác này. Bản chất của hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện của người dân, do người dân tự thực hiện, Nhà nước chỉ hỗ trợ để người dân phát huy ý thức, trách nhiệm của mình trong giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trên địa bàn ngay từ khi mới phát sinh.

II. Các văn bản pháp luật

+ Luật Hòa giải ở cơ sở số 35/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

+ Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 4 năm 2014.

+ Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ngày 30 tháng 7 năm 2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết số 14/2015/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh và Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14 tháng 01 năm 2016 quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

III. Phân biệt hòa giải ở cơ sở với hòa giải khác

Hòa giải ở cơ sở khác với việc hòa giải trong tố tụng và hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai.

1. Theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở, Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định.

Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố).

Các bên là cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật mà theo quy định được hòa giải ở cơ sở.

2. Hòa giải trong tố tụng dân sự được áp dụng đối với các trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình. Trong tố tụng, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc. Hiệu lực của các thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với các bên liên quan. Không được hòa giải trong một số trường hợp: Yêu cầu bồi thường gây thiệt hại tài sản của Nhà nước; những vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự trái pháp luật; bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Thành phần hòa giải là Thẩm phán, Thư ký, đương sự. Việc hòa giải phải được lập biên bản hòa giải thành. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, các bên không thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Thỏa thuận có hiệu lực ngay. Thỏa thuận có thể bị kháng nghị theo tủ tục Giám đốc thẩm nếu có căn cứ thỏa thuận bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật.

(Giám đốc thẩm là xét lại quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng (về tố tụng, về áp dụng pháp luật, không phù hợp tình tiết khách quan của vụ án).

3. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một khâu bắt buộc trước khi tiếp tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2014, quy định hòa giải tranh chấp đất đai tại Điều 202 và 203:

Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

(1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

(2) Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây: Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền:

 Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

4. Quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án

Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, tại Chương XXXIII của Bộ luật này quy định “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”. Theo đó, Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự, tức là sau khi có quyết định công nhận của Tòa án, các bên phải tự nguyện thi hành thỏa thuận của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành của Tòa án; hết thời gian này, bên phải thực hiện nghĩa vụ có điều kiện thực hiện nghĩa vụ mà không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện, bên có quyền được nộp đơn yêu cầu thi hành cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Để hướng dẫn cho các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở (nâng cao hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành ở cơ sở), ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Công văn số 3774/UBND-TP ngày 07/6/2017 để triển khai thực hiện.

Theo đó, để được Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;

- Vụ, việc được hòa giải tuân thủ đúng quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở;

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;

- Có văn bản hòa giải thành. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba;

- Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.

Thời hạn gửi đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là 06 tháng, kể từ ngày lập văn bản hòa giải thành. Cơ quan tiếp nhận đơn yêu cầu là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, làm việc.

- Hiệu lực của Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án:

+ Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

+ Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

+ Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở.

Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

Việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc không gửi đơn yêu cầu.

IV. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Thủ bầu hòa giải viên, có thể nói khá “rườm rà”, phức tạp, cụ thể có 03 bước:

- Bước 1: Chuẩn bị bầu hòa giải viên (Trong thời hạn 20 ngày, trước ngày dự kiến bầu hòa giải viên): Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận dự kiến những người được bầu làm hòa giải viên; thống nhất thời gian bầu hòa giải viên; quyết định hình thức bầu hòa giải viên; quyết định danh sách Tổ bầu hòa giải viên; thông báo công khai danh sách bầu hòa giải viên.

- Bước 2: Tổ chức bầu hòa giải viên: Bầu hòa giải viên bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp được tiến hành khi có trên 50% đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố trở lên tham dự; hoặc bầu hòa giải viên bằng hình thức phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn, Tổ dân phố.

- Bước 3: Kết quả bầu hòa giải viên: Trưởng ban công tác Mặt trận lập hồ sơ về kết quả bầu hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để xem xét, quyết định.

 

Trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

a) Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. Nguyên tắc thể hiện qua việc hòa giải chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của các bên; tôn trọng sự thỏa thuận; trong quá trình thực hiện thỏa thuận cũng không được áp đặt, cưỡng chế.

b) Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi.

c) Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp cần phải thông báo để có biện pháp phòng ngừa khi mâu thuẩn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng; để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự.

Phân tích về bí mật thông tin đời tư:

Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình:

1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Phạm vi và nội hàm đặc trưng của đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình không được quy định rõ ràng dẫn tới có nhiều vướng mắc trên thực tiễn.

Ví dụ như vướng mắc trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học sinh có phải bí mật cá nhân, đời sống riêng tư’’ hay không. Vấn đề này thời gian vừa qua được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường trung học phổ thông và cơ quan báo chí rất quan tâm khi công bố công khai điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông của thí sinh. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em, tại Điều 33 quy định “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em”. Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên 16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không. Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí sinh trên 16 tuổi.

- Việc xác định các hành vi nào là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc không xâm phạm còn chưa có những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể mà chủ yếu nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Qua rà soát, nghiên cứu những biểu hiện sau đây là hành vi xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư : (1) Hành vi thu thập, công bố các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân không được sự đồng ý của người đó hoặc của nhân thân cá nhân trong trường hợp cá nhân chết, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật ; (2) Hành vi xâm phạm bất hợp pháp chỗ ở của cá nhân ; (3) Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân. Tuy nhiên ở nước ta và ngay cả một số quốc gia tiến bộ, việc xác định hành vi xâm phạm không hề dễ dàng và thường gây nên sự tranh cãi của công chúng và khi xét xử vụ việc cụ thể nào đó thường do thẩm phán quyết định dựa trên kinh nghiệm và tương tự pháp luật. Thời gian vừa qua có một số vụ việc còn có nhiều quan điểm tranh luận xoay quanh như:

Các thông tin liên quan đến tổng tài sản của cá nhân và hành vi công khai thông tin có bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không còn có tranh cãi. Báo Đại Đoàn Kết có đưa tin về ‘‘Những người giàu nhất Việt Nam’’. Có quan điểm cho rằng pháp luật không buộc cá nhân phải công khai tài sản của mình trừ khi được sự đồng ý của họ, ngoại trừ một số trường hợp cá nhân phải công khai tài sản theo quy định của pháp luật hoặc buộc chứng minh nguồn gốc tài chính; quan điểm khác cho rằng tổng tài sản của những người giàu nhất Việt Nam đã được thể hiện công khai thông qua những thông tin dữ liệu được công khai ví dụ như tổng số cổ phiếu niêm yết tại sàn chứng khoán, hay tổng số bất động sản góp vốn vào công ty… do đó tổng tài sản của những người này được phép công khai mà không cần xin phép họ.

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đặc biệt là hình ảnh liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng được đưa ra tranh luận bởi lẽ sự phân định giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền tự do báo chí còn chưa có quy định rõ ràng. Hoặc thậm chí việc đăng tải hình ảnh của cá nhân phạm tội lên trên báo chí hoặc mạng xã hội cũng là một vấn đề còn tranh cãi.

Ngày 20/7/2017, Bộ Tư pháp tổ chức họp báo định kỳ để thông tin về công tác tư pháp quý II/2017. Người phát ngôn Bộ Tư pháp, Chánh Văn phòng Bộ Đỗ Đức Hiển chủ trì buổi họp báo cùng sự tham dự của đại diện lãnh đạo nhiều đơn vị liên quan thuộc Bộ để trả lời hàng loạt vấn đề mà dư luận quan tâm trong thời gian qua. Về vấn đề liên quan giữa bảo vệ bí mật đời tư với công khai điểm thi của thí sinh thi tốt nghiệp THPT quốc gia, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế Nguyễn Hồng Hải quan niệm, Bộ luật Dân sự năm 2015 tuy có quy định nguyên tắc về bảo vệ bí mật đời sống riêng tư nhưng thế nào là đời sống riêng tư thì Bộ luật không quy định mà việc quy định cụ thể sẽ do các luật chuyên ngành hướng dẫn. Đối với công bố điểm thi, theo Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định hướng dẫn Luật, với học sinh dưới 16 tuổi thì thông tin về kết quả học tập là thông tin đời sống riêng tư và thông tin này được bảo vệ theo nguyên tắc thông tin cá nhân. Học sinh từ 16 tuổi trở lên thì hiện không có quy định cụ thể nào nói đây là thông tin đời sống riêng tư cần bảo vệ. Việc công khai điểm thi của học sinh từ 16 – 18 tuổi có bị cấm hay không thì phải có điều luật quy định cụ thể. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm quốc tế, ông Hải nhận thấy các nước thường xây dựng 1 trang web điện tử trực tuyến, những cá nhân cần biết điểm sẽ tra bằng số báo danh, số ID của mình. “Để hạn chế những rủi ro không cần thiết đối với lợi ích nhân thân, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kịp thời nghiên cứu hoàn thiện vấn đề này”.

Ở nước ngoài, nhiều nước chưa có khái niệm rõ ràng về vấn đề này và nhiều nước khi xét xử áp dụng án lệ. Vụ việc diễn ra tại thành phố Dortmund Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến việc xác định hành vi có xâm phạm đời sống riêng tư của cá nhân như sau: ông Robert xây một khu xông hơi sau vườn, mỗi lần tới đây, ông quyết định không mặc quần áo mà khỏa thân đi vào phòng xông hơi. Hàng xóm nhiều lần chứng kiến hành động này và họ cảm thấy không hài lòng và họ quyết định khởi kiện lên Tòa án thành phố Dortmund vì “không thể chịu nổi hình ảnh khỏa thân” của Robert. Thẩm phán nói rằng mỗi tuần ông Robert sử dụng phòng xông hơi 2 lần và việc khỏa thân theo tần suất này là “chấp nhận được”. Thẩm phán nói rằng không hề thấy dấu hiệu vi phạm hình sự trong trường hợp này và ông Robert hoàn toàn có quyền được khỏa thân đi lại tự do trong vườn nhà mình. Tuy nhiên hàng xóm nói Robert thường xuyên say xỉn, không chịu xây toilet và thường đi vệ sinh vào những bụi việt quất ông trồng. Thẩm phán đáp lời rằng luật pháp không cấm việc một người đi vệ sinh trong vườn nhà của ông ta. Vụ việc kết thúc và luật sư của ông Hans nói rằng “đây là một trải nghiệm đau buồn”.
        Vụ việc tại thành phố Ottawa vào tháng 10/2017, một viên chức thành phố có tên Dunn bị Thành phố Ottawa yêu cầu tiết lộ tất cả các email được gửi hoặc nhận bởi Rick O'Connor - một Luật Sư Thành Phố, bởi lẽ email này do Thành phố cấp cho Dunn để làm việc, và có dấu hiệu nghi ngờ Dunn đã tiết lộ một số thông tin bí mật của Thành phố. Qua nhiều lần tranh luận tại Tòa, thẩm phán đã phán quyết rằng khó phân biệt giữa "thông tin cá nhân và tài liệu của nhân viên được lưu trữ dưới hình thức giấy trong tủ hồ sơ của chính phủ và bàn làm việc và các hồ sơ lưu trữ dưới dạng điện tử trong hệ thống máy tính do chính phủ sở hữu và nội dung liên lạc qua email giữa O'Connor và Dunn không liên quan gì đến các vấn đề kinh doanh của thành phố. Do đó, việc tiết lộ nội dung trong email của Dunn sẽ vi phạm quyền riêng tư của O'Connor và Dunn".

Bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín…

Tình huống:

Thời gian gần đây, chị B nhận thấy những biểu hiện khác thường ở anh A – chồng chị B. Ở nhà, anh thường lạnh nhạt, ít nói, hay cáu gắt với vợ con hơn trước. Chi B sinh nghi chồng mình có người phụ nữ khác, hai vợ chồng thường xuyên to tiếng với nhau. Chi B ôm con về nhà mẹ đẻ.

Giả sử có 02 trường hợp:

TH1: Sau khi gặp gỡ với anh A, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A. Do trong một lần tụ tập bạn bè, không làm chủ được hành vi của mình, anh đã có quan hệ với một tiếp viên, sau đó biết được cô gái này bị HIV. Từ đó, vừa lo lắng, vừa ân hận, không biết mình đã bị lây nhiễm chưa, và vợ mình có bị không. Trường hợp này hòa giải viên phải khuyên giải anh A đi xét nghiệm và không được tiết lộ về thông tin này vì nó ảnh hưởng nghiêm trọng tói cuộc sống của anh A và những người xung quanh.

TH2: Sau khi tìm hiểu, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A là do có người phụ nữ khác, thường xuyên qua lại với người này. Trường hợp này anh A vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

d) Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

đ) Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Quy định về bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở là nội dung mới so với quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở trước đây, phù hợp với yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ và pháp luật về bình đẳng giới. Bình đẳng giới thể hiện trong tổ chức và trong hoạt động. Trong tổ chức, phải có hòa giải viên nữ tham gia tổ hòa giải; trong hoạt động hòa giải các vụ việc, phải xét đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em.

e) Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.

V. Kinh phí và chế độ của Tổ hòa giải, hòa giải viên

1. Nguồn kinh phí hỗ trợ

Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở; chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc và hỗ trợ các chi phí cần thiết khác cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.

2. Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên

Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên bao gồm:

- Chi hỗ trợ cho hòa giải viên bao gồm: Chi hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc; chi hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải;

- Chi hỗ trợ tổ hòa giải để mua tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ hoạt động của tổ hòa giải; tổ chức các cuộc họp, sơ kết, tổng kết hoạt động của tổ hòa giải;

3. Mức chi hỗ trợ

Hiện nay, Thông tư hướng dẫn về nội dung chi và mức chi trong công tác hòa giải đang được Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính phối hợp ban hành. Do đó, văn bản áp dụng ở địa phương hiện nay vẫn là Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 về việc quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.

Một số mức chi cụ thể như sau:

- Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải):

+ Hòa giải thành: 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải;

+ Hòa giải không thành: 150.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải.

- Hỗ trợ chi phí mai táng cho người tổ chức mai táng hòa giải viên gặp tai nạn hoặc rủi ro bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở: Mức chi bằng 05 tháng lương cơ sở.

- Chi hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải (chi mua văn phòng phẩm, sao chụp tài liệu, nước uống phục vụ các cuộc họp của tổ hòa giải): 100.000 đồng/tổ hòa giải/tháng.

- Chi bồi dưỡng thành viên Ban tổ chức bầu hòa giải viên tham gia họp chuẩn bị cho việc bầu hòa giải viên: 50.000 đồng/người/buổi.

- Chi tiền nước uống cho người tham dự cuộc họp bầu hòa giải viên: 10.000 đồng/người/buổi.

4. Điều kiện hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ, việc của hòa giải viên

- Vụ, việc được tiến hành hòa giải và đã kết thúc theo quy định.

- Hòa giải viên không vi phạm nghĩa vụ của hòa giải viên.

Như vậy, cần lưu ý rằng, một vụ việc dù được hòa giải thành hay không nhưng đáp ứng các điều kiện trên thì được hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ việc.

5. Phương thức và thủ tục hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên

- Việc hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên được thực hiện sau khi vụ, việc hòa giải kết thúc.

- Hồ sơ thanh toán hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên:

Nhìn chung, hồ sơ thanh toán là những chứng từ (giấy tờ, hóa đơn) liên quan chứng minh công việc đã thực hiện theo yêu cầu, bao gồm:

+ Tổ trưởng tổ hòa giải lập hồ sơ đề nghị thanh toán thù lao cho hòa giải viên, bao gồm: Giấy đề nghị thanh toán thù lao của hòa giải viên có ghi rõ họ, tên, địa chỉ của hòa giải viên; tên, địa chỉ tổ hòa giải; số tiền đề nghị thanh toán; nội dung thanh toán (có danh sách các vụ, việc trong trường hợp đề nghị thanh toán thù lao cho nhiều vụ, việc); chữ ký của hòa giải viên; chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải và xuất trình Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để đối chiếu khi cần thiết.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định và trả thù lao cho hòa giải viên thông qua tổ hòa giải; trường hợp quyết định không thanh toán cho hòa giải viên thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Tổ hòa giải trả thù lao cho hòa giải viên theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được thù lao.

6. Các trường hợp hòa giải viên được hưởng hỗ trợ, tạo điều kiện khắc phục hậu quả khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Trường hợp được hỗ trợ

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trong khi đang thực hiện hòa giải.

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trên đường đi và về từ nơi ở đến địa điểm thực hiện hòa giải trên tuyến đường và trong khoảng thời gian hợp lý.

- Các khoản được hỗ trợ

Hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ như sau:

+ Chi phí cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; nếu thu nhập thực tế của hòa giải viên không ổn định hoặc không thể xác định được thì áp dụng cách tính theo thu nhập bình quân hàng ngày của người làm công ăn lương chia theo khu vực thành thị, nông thôn, loại hình kinh tế ngoài nhà nước trong thời gian cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút.

Gia đình của hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ một lần bằng tiền để chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc hòa giải viên trước khi chết; người tổ chức mai táng được hỗ trợ chi phí cho việc mai táng.

7. Thủ tục thực hiện hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Hồ sơ

+ Giấy đề nghị hỗ trợ của hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng có xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc Trưởng ban công tác Mặt trận trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại là tổ trưởng tổ hòa giải. Giấy đề nghị hỗ trợ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người yêu cầu hỗ trợ; lý do yêu cầu hỗ trợ;

+ Biên bản xác nhận tình trạng của hòa giải viên bị tai nạn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra tai nạn hoặc cơ quan công an nơi xảy ra tai nạn (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Giấy ra viện, hóa đơn thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Văn bản, giấy tờ hợp lệ về thu nhập thực tế theo tiền lương, tiền công hằng tháng của người bị tai nạn có xác nhận của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp), bao gồm: Hợp đồng lao động, quyết định nâng lương của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động hoặc bản kê có thu nhập thực tế của hòa giải viên bị tai nạn và các giấy tờ chứng minh thu nhập thực tế hợp pháp khác (nếu có);

+ Giấy chứng tử trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp).

- Hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ  đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã ra quyết định công nhận hòa giải viên.

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện kèm theo hồ sơ đề nghị hỗ trợ.

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, ra quyết định hỗ trợ; trường hợp không hỗ trợ thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Chậm nhất sau 03 ngày làm việc, kể từ ngày ngày nhận được quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc chi tiền hỗ trợ.

VI. Một số kỹ năng hòa giải ở cơ sở

1. Kỹ năng hòa giải là một yếu tố quan trọng trong công tác hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng. Kỹ năng hòa giải tốt sẽ giúp phát huy tốt hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở; ngược lại, có thể làm cho sự việc không chỉ hòa giải không thành mà còn có thể gây nên những hậu quả khó lường.

Câu chuyện thực tế:

Một vụ việc khiến hòa giải viên buồn và “sốc”, đó là chuyện chồng rượu chè thường xuyên đánh đập vợ, dẫn đến, người vợ "tức nước vỡ bờ", không làm chủ được hành vi đã “xuống tay” giết chồng.

Chị Minh là người phụ nữ rất đảm đang, tháo vát. Chị lấy anh Hòa, sinh được được một bé gái thì chị Minh không thể chịu đựng nổi tính tình côn đồ, thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ của ông Hòa. Chị bỏ chồng, đi xã làm ăn. Đứa con chung của hai người ở cùng bố không lâu thì mất.

Ông Hòa đi lấy vợ hai thì sinh thêm được một con gái. Nhưng với bản tính của ông Hòa, dường như khó có người phụ nữ nào chung sống được lâu dài. Thế nên chỉ sau một thời gian ngắn gắn bó, ông Hòa và vợ hai chia tay. Ông Hòa đón chị Minh về “nối lại tình xưa”. Vì vẫn còn tình cảm với ông Hòa nên chị Minh về sống cùng, sau đó sinh được thêm 2 người con.

Là người giỏi thu vén nên kinh tế trong gia đình đa phần do một tay chị Minh tạo dựng. Ông Hòa vốn bê tha rượu chè nên không chỉ không giúp đỡ kinh tế cho vợ mà còn thường xuyên bị “ma men” điều khiển, đánh đập vợ con.

Chị Minh cứ sắm sửa được cái gì, ông lên cơn say là đập nát hết. Những lần mới cãi vã, người trong thôn trong xóm còn tới can thiệp, khuyên giải, Tổ hòa giải cũng vào cuộc nhiều lần nhưng hòa thuận được mấy hôm rồi  vẫn “đâu lại vào đấy” nên không ai còn  thiết tha với chuyện cãi nhau như cơm bữa của gia đình ông Hòa bà Minh nữa.

Chị Thơm là Hòa giải viên vẫn ghé qua để trò chuyện với bà Minh và ông Hòa. Chị đã khuyên giải và mong muốn hai vợ chồng ông Hòa và bà Minh cố gắng làm ăn. Nhất là ông Hòa không còn rượu chè nữa, hãy tu chí làm ăn giúp đỡ bà Minh. Nghe chị Thơm nói, cả hai ông bà đều gật đầu quyết chí. Nhưng lại được mấy hôm chị Thơm lại phải chứng kiến cảnh vợ chồng ông bà cãi vã, xô xát nhau.

Khi “con giun xéo lắm cũng quằn”, trong một lần bị chồng đánh đập, chửi bới rồi đem hết quần áo của mình ra sân đốt, bà Minh đã cầm kéo đâm chồng khiến nạn nhân tử vong.

Hoặc có trường hợp chị ham làm công tác xã hội thường xuyên đi làm về muộn, ít có thời gian chăm sóc gia đình và các con. Anh chồng khó chịu, thường mắng chửi vợ. Chị vợ lại nóng tính, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau ảnh hưởng đến an ninh, trật tự thôn xóm.

Thực tế có rất nhiều các trường hợp phải nhờ đến hòa giải viên, hôn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, các tranh chấp nhỏ... Và thực tế công tác hòa giải ở cơ sở cũng hết sức vất vả. Đây được ví như công việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nhưng có những trường hợp khi hòa giải thì hòa giải viên bị những người trong cuộc chửi bới, dọa đánh, đe dọa... Chế độ thì rất ít, có khi còn không có, nhưng trách nhiệm lại nặng nề và đòi hỏi hòa giải viên phải có các kỹ năng nhất định. 

2. Khái niệm kỹ năng hòa giải

Kỹ năng hòa giải là khả năng của hòa giải viên vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội, bằng sự nêu gương của mình và kinh nghiệm cuộc sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp, mâu thuẩn, nhằm xóa bỏ bất đồng và đạt được thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật ở cơ sở.

3. Một số kỹ năng hoà giải ở cơ sở cần lưu ý

(1) Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội.

Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội là một kỹ năng rất quan trọng, không thể thiếu trong công tác hòa giải ở cơ sở. Bất kỳ một vụ việc hòa giải nào cũng cần viện đến kiến thức pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội.

Từ thực tiễn hòa giải cho thấy, các vụ việc mâu thuẩn xảy ra phổ biến nhất là trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Xã hội càng hiện đại thì dường như chuyện tan vỡ gia đình ngày càng phổ biến hơn. Trước ở làng ở quê hiếm lắm mới thấy có đôi trục trặc dẫn tới bỏ nhau song hiện giờ số vụ đã nhiều hơn. Mỗi năm, có nhiều các vụ hòa giải từ to đến nhỏ: ghen tuông, cãi vã cho tới việc quyết định ly hôn.

Cái khó của những hòa giải viên cơ sở chính là người dân ở nhiều thôn quê, làng xã trình độ dân trí còn thấp, vẫn "trọng nam khinh nữ", người đàn ông quen sống gia trưởng, người phụ nữ luôn luôn chịu nhịn nhục, để người chồng hành hung. Hoặc là người phụ nữ vì quá uất ức, quẫn trí nên đã có những hành động thiếu suy nghĩ....

Để hòa giải các cặp đôi "sứt mẻ" thành công, hòa giải viên phải bàn họp, nghĩ nhiều cách khác nhau.

Các hòa giải viên mong muốn giúp những cặp vợ chồng trong thôn quê của mình hiểu rõ về pháp luật, nhất là pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. Họ chịu nghe lời của các hòa giải viên để sống tốt hơn, đầm ấm hơn. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết hòa giải viên cần báo cáo cư quan chức năng can thiệp sớm vào các vụ việc để không có những hậu quả đau lòng xảy ra.

Ví dụ về hậu quả nếu không can thiệp kịp thời

Ví dụ 1: Qua mai mối, Khánh quen biết vợ tên là Lan Anh, là một cô gái hiền lành, ít nói, đang làm công nhân may. Sau khi lấy nhau, vợ chồng Khánh đã được gia đình nhà vợ cho mượn một ngôi nhà để ở với đầy đủ tiện nghi. Sau đó, Khánh có bồ và vì vậy mà những cuộc cãi vã, xô xát xảy ra thường xuyên. Thậm chí có lúc bồ của Khánh còn nhắn tin vào máy điện thoại di động xui Khánh bỏ vợ và không được có con với vợ. Trong một lần tình cờ, Lan Anh đọc được cái tin nhắn này trong điện thoại của Khánh nên 02 vợ chồng cãi nhau, dẫn đến xô xát và Khánh đã đánh chết vợ.

Ví dụ 2: Hai vợ chồng anh Tuyên làm xe ôm, còn chị Huệ thì buôn bán vặt vãnh, nuôi 02 đứa con. Tiền kiếm được không đáng là bao mà Tuyên thì lại ham mê lô đề. Chị Huệ khuyên bảo mãi không được và cũng vì chuyện đó mà hai vợ chồng cãi vã. Bực tức, Tuyên đã xuống tay giết vợ rồi nói dối hai con là mẹ đã bỏ ba bố con để đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc. Sự thật chỉ được phát hiện cho tới khi những phần máu thịt đớn đau của người mẹ xấu số đó sau nhiều ngày bị dìm xuống hồ sâu đã nổi lên mặt nước và được quần chúng nhân dân phát hiện.

Ví dụ 3: Nếu như đấm, đá, đập... được coi là lối bạo hành truyền thống thì nay, trong thời đại của công nghệ, nhiều kiểu bạo hành quái đản đã nảy sinh. Khi kết hôn với nhau, cả ông D. và chị P. đều đã trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc và mỗi người đều đã có một con riêng. Tưởng sau những bất hạnh, cuộc hôn nhân lần này sẽ mang đến hạnh phúc. Nhưng không, chỉ sau một thời gian không dài thì cuộc sống chung bắt đầu cơm không lành, canh không ngọt.

Không giống như nhiều người phụ nữ khác, chị không phải hứng chịu những trận đòn thừa sống thiếu chết của chồng. Không phải chịu nỗi đau về thể xác nhưng người đàn ông này đã ra những đòn bạo hành về tinh thần rất quái đản để hành hạ chị. Đầu tiên là ông ta thay toàn bộ khóa cửa nhà để mẹ con chị mất chỗ cư trú. Sau đó, ông ta bắt đầu tự chế tạo ra hàng loạt những tờ rơi có tiêu đề là "Thư mời" với nội dung: Chị P. là gái gọi, kèm theo địa chỉ, số điện thoại "để khách làng chơi tiện liên hệ". Cùng với các "thư mời", ông D. còn chế tạo ra các tờ "cáo phó" với nội dung thông báo là chị P. đã chết và các "thư gửi" đề tên người nhận là mẹ đẻ của chị P. với nội dung lăng mạ bà. Tất cả các "thư mời", "thư gửi", "cáo phó" này, ngoài việc dán ở gia đình cha mẹ đẻ chị P., ông ta còn đem rải ở nhiều địa điểm nơi chị P. từng sinh sống và gửi đến trường học nơi con gái chị P. đang theo học.

Ngón đòn hành hạ quái đản của người chồng đã khiến hai mẹ con chị P. suy sụp, phải bỏ nhà ra đi đến ở tại ngôi nhà tạm lánh của Hội phụ nữ. Dù không bị đánh đập tàn nhẫn nhưng các chuyên gia tư vấn cho rằng, đòn bạo hành mà chị P. phải gánh chịu thậm chí còn nặng nề hơn rất nhiều. Bởi, nếu những vết thương về thể xác, thời gian và nững can thiệp về y tế hoàn toàn có thể chữa lành được còn những vết thương tinh thần thì không...

Ví dụ 4: Còn đây là một ngón đòn bạo hành khác mà câu chuyện của nạn nhân này đã từng được đưa ra bàn luận tại nhiều cuộc hội thảo về bạo hành gia đình. Đó là câu chuyện về một người chồng đã tỏ ra rất bình tĩnh khi tận mắt chứng kiến vợ ngoại tình. Không đánh mắng vợ, cũng không gây chiến với tình địch bằng vũ khí, anh ta chỉ nhẹ nhàng xin tình địch 10 nghìn đồng và đón vợ về nhà. Cuộc sống gia đình tưởng như vẫn yên ổn. Chỉ khác là trong tất cả các bữa ăn của gia đình, tờ tiền 10 nghìn luôn luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Bất kể khi nào, các con cần tiền để đóng học, để mua sách vở... thì anh đều chỉ vào tờ tiền này và nói: "Tiền này do mẹ kiếm được đấy, các con cứ lấy mà chi dùng, rồi mẹ sẽ tiếp tục kiếm thêm". Cứ như thế, nhiều tháng sau khi bị chồng tra tấn bằng ngón đòn êm ái này, người vợ đã tự vẫn...

Ví dụ 5: Nhưng kinh hoàng và đen tối nhất là âm mưu của người chồng trong một vụ án hết sức thương tâm xảy ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc. Có anh chàng người dân tộc may mắn cưới được một cô vợ khá xinh đẹp. Một lần, phải đi xa nhà, sợ vợ ngoại tình, anh ta đã bí mật gài một quả lựu đạn dưới dát giường với toan tính tàn ác, nếu vợ mà rước giai về ngủ chung, trọng lượng tăng gấp đôi, dát giường sẽ trĩu xuống và cọ vào kíp nổ làm cho lựu đạn nổ, kết liễu đời cả đôi gian phu dâm phụ. Nhưng, khốn thay, thấy chồng đi vắng, chị vợ đã băng qua một quả đồi, đón mẹ chồng đưa bà về ngủ chung cho bớt cô quạnh. Và, lựu đạn nổ khi bà mẹ chồng và cô con dâu vừa đặt lưng xuống chiếc giường oan nghiệt đó...

(2) Kỹ năng về vận dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ hoà giải

* Câu chuyện thứ nhất: Nhà anh Thịnh sắp đến ngày giỗ bố, anh Thịnh ra chợ làng mua được một con gà trống tía rất ưng ý. Để đề phòng gà xổng chuồng đi mất, anh chặt lông đuôi, lông cánh rồi cẩn thận nhốt gà vào lồng (bội gà) để ở góc vườn. Ấy thế mà chẳng hiểu sao ngay chiều hôm đó, anh đã thấy con gà ung dung đi lại trong góc sân nhà anh Mạnh. 

Tuy hai nhà là hàng xóm, cũng chưa từng xảy ra điều tiếng gì nhưng xưa nay anh Thịnh ít qua lại nhà anh Mạnh. Biết tính anh Mạnh ham cờ bạc, lại hay qua lại với những người có tiếng là “cộm cán” trong vùng nên dù có tiếc con gà, anh Thịnh cũng chỉ quát tháo vài câu trong nhà cho đỡ bực.

Nhưng chị Nhung vợ anh Thịnh thì không chịu được. Chị ra ngay đầu ngõ kể với mấy bà hàng xóm chuyện “làng này có kẻ nhẫn tâm ăn của cả người chết”. Rồi câu chuyện “ăn của cả người chết” lan nhanh như điện, đến tối thì cả làng đều biết nhà Mạnh “bất nhân, bất nghĩa”. 

Chưa ai hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao thì tối hôm đó cả làng đã được một phen khiếp vía khi anh Mạnh cởi trần, mình đầy xăm trổ, tay lăm lăm con dao bầu quyết sang nhà anh Thịnh “xin tý tiết”. 

Nhận được tin báo, các hòa giải viên của thôn lập tức có mặt để hỏi rõ sự tình. Thấy ông Thông hòa giải viên đến, anh Mạnh có phần dịu lại vì ông Thông vốn là người có uy tín trong làng. Ông đề nghị hai nhà cùng ngồi lại để hỏi rõ ngọn ngành. Thì ra, do anh Thịnh không chặn kỹ nên con gà trống tía đã lách được ra khỏi lồng, chạy sang sân nhà anh Mạnh kiếm mồi. 

Anh Mạnh tức vì bị vu là ăn trộm gà, “ăn của cả người chết” nên định sang cho anh Thịnh một trận. Còn chị Nhung vì tiếc con gà nên trong lúc “loan tin” với các bà hàng xóm đã nhỡ miệng nói nhiều câu xúc phạm tới nhà anh Mạnh. 

Hiểu ra câu chuyện, ông Thông nhẹ nhàng phân tích cái hơn, cái thiệt, cái lý, cái tình cho chị Nhung, anh Mạnh. Lúc này, chị Nhung mới tiếc giá như mình đừng vội vàng “nhỏ to, buôn chuyện” mà sang ngay nhà anh Mạnh hỏi kỹ ngọn ngành thì mọi chuyện đã không nên nỗi. Nghe chị Nhung xin lỗi, anh Mạnh vui vẻ gọi ngay con trai mang gà sang trả lại anh Thịnh và còn hứa đến ngày giỗ bố anh Thịnh nhất định sẽ sang ăn cỗ. 

Chuyện “bé xé ra to” như con gà đi lạc của nhà anh Thịnh chỉ là một trong vô vàn câu chuyện mà hàng ngày các hòa giải viên ở cơ sở phải miệt mài hóa giải. 

Kinh nghiệm: Trong trường hợp trên, anh Thông là hòa giải viên đã vận dụng Kỹ năng hòa giải (nắm bắt tình hình sự việc, tổ chức đối thoại, giúp hai bên hiểu rõ vấn đề để các bên có thể loại bỏ mâu thuẩn).

(3) Kỹ năng tư vấn pháp luật

 Anh T và chị H vốn là những người hàng xóm liền kề, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Kể từ khi anh T xây lại nhà mình thành một ngôi nhà 3 tầng khang trang, tình cảm giữa hai nhà không còn như cũ nữa. Không rõ nguyên nhân chính xác của việc một bên tường nhà chị H bị nứt, phải sửa chữa lại thì mới đảm bảo an toàn. Chị H cho là tại nhà anh T xây lại nhà, nên nhà chị mới như vậy. Về phía anh T thì kiên quyết không nhận phần lỗi về mình. Nhận được thông tin, tổ hòa giải ở cơ sở sau khi tìm hiểu vụ việc, đã chủ động đến hỏi chuyện cùng hai gia đình anh T và chị H.

Buổi đầu tiên, hòa giải viên đã mời tổ trưởng khu phố, hai gia đình anh T và chị H cùng hai gia đình hàng xóm của họ. Cuộc nói chuyện diễn ra tại nhà chị H. Tổ hòa giải để cho hai gia đình anh T và chị H phát biểu quan điểm trước. Anh T khăng khăng cho rằng nhà mình không có lỗi, tường nhà chị H nứt là do nhà ấy xây không vững. Còn chị H chứng minh từ khi anh T xây nhà thì nhà mình mới xảy ra hiện tượng nứt tường. Bằng tình cảm xóm giềng, tổ hòa giải đã khuyên nhủ hai gia đình nên thông cảm cho nhau và anh T đồng ý bồi thường cho chị H tu sửa nhà, thống nhất sau 01 tuần sẽ trả lời chính thức cho Tổ hòa giải. Biên bản cuộc họp đã được lập.

Buổi thứ hai, anh T thay đổi ý kiến, không bồi thường cho chị H nữa vì theo người họ hàng làm địa chính của anh T thì anh T không phải bồi thường. Chị H không đồng ý, hai bên đã có lời nói xúc phạm nhau. Anh T nhất quyết mang vụ việc ra tòa án giải quyết. Tổ hòa giải đề ra phương án: Để hai bên suy nghĩ, thương lượng 01 tuần, nếu không được thì đưa vụ việc ra tòa án giải quyết.

Buổi thứ ba, anh T kiên quyết không thay đổi ý kiến. Tổ hòa giải thuyết phục nhưng không thành, hướng dẫn hai bên làm thủ tục để khởi kiện đến tòa án.

Kinh nghiệm:

Về phương thức hòa giải: Tổ hòa giải mới chỉ dùng lý lẽ, chưa áp dụng quy định pháp luật để dẫn chứng, cụ thể là Điều 267 về “Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng” và Điều 268 “Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề” của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Mời thêm thành phần tham gia hòa giải: Tổ hòa giải có thể tìm hiểu nhân thân của người họ hàng làm địa chính của anh T hoặc cán bộ làm công tác địa chính, xây dựng, mời họ tham gia hòa giải, giải thích rõ ràng quy tắc xây dựng và những ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Qua đó, làm rõ mối quan hệ nhân quả trong việc anh T xây nhà 3 tầng và sự nứt tường của nhà chị H. Có như vậy mới thuyết phục được anh T.

Như vậy, với việc vận dụng quy định pháp luật về trách nhiệm trong xây dựng công trình liền kề và mời người có chuyên môn, uy tín tham gia hòa giải nhằm giải thích các vấn đề liên quan một cách chi tiết thì công tác hòa giải sẽ hiệu quả hơn.

(4) Kỹ năng yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc

Để đưa ra lời khuyên (tư vấn) chính xác, đúng pháp luật thì hòa giải viên phải đề nghị đối tượng cung cấp đầy đủ các tài liệu (nếu có) phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp.

Phần lớn các vụ việc tranh chấp thường có các tài liệu như văn bản, thư từ giao dịch...  liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ, tài liệu này là những chứng cứ pháp lý thể hiện nội dung, bản chất của vụ việc hoặc phản ánh diễn biến và quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, có những vụ việc đối tượng chỉ trình bày vụ việc một cách chung chung, chưa muốn cung cấp cho hòa giải viên những văn bản, chứng cứ mà họ cho rằng không có lợi cho mình. Vì vậy, hòa giải viên cần thuyết phục để họ cung cấp đầy đủ. Nếu các bên tranh chấp không cung cấp những tài liệu này thì việc hòa giải khó chính xác và đúng pháp luật.

Sau khi đối tượng đã cung cấp đầy đủ văn bản, tài liệu liên quan, hòa giải viên phải đọc, nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu đó. Trong khi đọc có thể hình thành luôn giải pháp hoà giải trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của vấn đề đưa ra. Đối với những tài liệu mà hòa giải viên không hiểu, không đọc được hoặc có nghi ngờ về tính chân thực của nó thì cần hỏi lại đối tượng để khẳng định ngay. Trong mọi trường hợp, khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho đối tượng thì hòa giải viên không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.

(5) Kỹ năng tra cứu tài liệu tham khảo (Cách tìm văn bản, điều luật áp dụng)

Để đưa ra lời tư vấn pháp luật chính xác, việc tra cứu tài liệu pháp luật trong quá trình hòa giải là điều kiện bắt buộc bởi vì để khẳng định với các bên tranh chấp rằng hòa giải viên đang thực hiện hòa giải theo pháp luật, trên cơ sở pháp luật chứ không theo cảm tính chủ quan, duy ý chí của mình. Ngoài ra, việc tra cứu tài liệu pháp luật có liên quan đến vụ việc hòa giải sẽ giúp hòa giải viên kiểm tra tính chính xác những tư duy và khẳng định chính thức những lời tư vấn của mình là đúng pháp luật vì trong thực tiễn, không phải bao giờ hòa giải viên cũng có thể nhớ chính xác tất cả các quy định thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nếu thấy cần thiết hoặc các bên yêu cầu, thì hòa giải viên có thể cung cấp cho các bên bản sao văn bản, tài liệu đó cùng với lời tư vấn mà mình đưa ra trong trường hợp không tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó thì hòa giải viên có thể chưa đưa ra lời khuyên ngay mà hẹn đối tượng vào một dịp khác để khẳng định lại tính hợp pháp của văn bản pháp luật cần áp dụng.

Trường hợp vụ việc hòa giải có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà hòa giải viên chưa hiểu sâu, thì nên gặp các nhà chuyên môn hay đồng nghiệp khác mà am hiếu sâu về lĩnh vực pháp luật đó để tham khảo ý kiến trước khi đưa ra lời tư vấn, tránh tình trạng hòa giải viên chưa nắm vững pháp luật mà vẫn đưa ra lời tư vấn, giải đáp pháp luật dẫn đến việc hòa giải không chính xác, không đúng pháp luật, trái với nguyên tắc hòa giải, gây hậu quả cho các bên tranh chấp.

Kinh nghiệm: Đối với các tranh chấp thông thường, đó là Bộ luật Dân sự; đất đai có Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn; Hành chính là Luật Xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định xử phạt các lĩnh vực; hình sự Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.

(6) Kỹ năng xem xét, xác minh vụ việc

Việc xem xét, xác minh vụ việc trong hòa giải ở cơ sở chỉ áp dụng đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật hoặc đã được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân giúp đỡ giải quyết mà các bên vẫn không thỏa thuận được với nhau trong cách giải quyết tranh chấp. Việc xem xét, xác minh vụ việc chỉ được tiến hành sau khi đã nghe cả hai bên trình bày, xem xét các giấy tờ, tài liệu các bên cung cấp, hòa giải viên thấy chưa đủ cơ sở để tư vấn, đưa ra những giải pháp, cần phải tiến hành xem xét, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và những người có liên quan để tìm hiểu rõ bản chất vụ việc, tránh vội vàng đưa ra những kết luận phiến diện, chủ quan.

Quá trình xem xét, xác minh vụ việc đòi hỏi hòa giải viên phải thực sự khách quan, vô tư, nhất là khi tiếp xúc với những người có lợi ích liên quan trong vụ việc tranh chấp hoặc thân quen với một bên tranh chấp. Thông thường, những người có lợi ích liên quan đến vụ việc hoặc thân quen luôn bảo vệ việc có liên quan đã làm, nên chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho bên tranh chấp mà họ có liên quan. Vì vậy, hòa giải viên cần khéo léo đề nghị những người có liên quan cung cấp những thông tin, tài liệu chính xác, trung thực. Việc xem xét, xác minh nên lập thành biên bản để làm căn cứ giải thích, thuyết phục các bên tự nguyện hòa giải.

(7) Kỹ năng giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp (Kỹ năng giao tiếp của hòa giải viên)

Giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện thỏa thuận, giải quyết tranh chấp là nghệ thuật hòa giải, đòi hỏi hòa giải viên không chỉ có kiến thức pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tranh chấp, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ hòa giải, có uy tín, phẩm chất đạo đức, có tâm và kinh nghiệm cuộc sống mà còn có khả năng vận dụng pháp luật và đạo đức xã hội để giải thích, thuyết phục các bên đi đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp.

- Tỏ ra thông cảm và tôn trọng đối tượng: khi phân tích, giải thích cho các bên biết hành vi của họ là đúng hay sai, hòa giải viên cần phải xây dựng không khí gần gũi và tin tưởng, cảm thông và tôn trọng đối tượng, có thái độ ân cần, chia sẻ, nhiệt tình, cần phải làm cho không khí nói chuyện được vui vẻ, chan hòa. Như vậy, đối tượng sẽ lắng nghe ý kiến thuyết phục của hòa giải viên. Khi thuyết phục đối tượng mà nói được những suy nghĩ băn khoăn của họ thì dễ đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, mọi lý lẽ, thuyết phục của hòa giải viên phải xuất phát từ lập trường của các bên tranh chấp mà suy nghĩ và đặt vấn đề, đưa ra giải pháp tôi ưu cho các bên tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình.

- Khơi gợi cho các bên tranh chấp những tình cảm tốt đẹp vốn có giữa họ như tình cảm gia đình, tình cảm xóm giêng, bạn bè để họ dễ thông cảm cho nhau.

- Đưa ra những chứng cứ, ví dụ cụ thể để minh chứng cho việc phân tích, lập luận của hòa giải viên.

Kiên trì, thuyết phục, không nên nôn nóng: hòa giải viên cần suy nghĩ chín chắn, điều gì nên nói, điều gì không nên nói, ngoài ra còn phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết từng bước, nhất là đối vời những người có thái độ bảo thủ hoặc bất hợp tác.

Mục tiêu đặt ra đối với kỹ năng hòa giải là những lời khuyên thuyết phục và hướng dẫn của hòa giải viên phải được các bên chấp nhận, đồng thuận nghe theo và làm theo bằng việc các bên tự định đoạt giải quyết dứt điểm tranh chấp, lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên một cách tốt nhất.

Làm rõ những mặt lợi và bất lợi nếu để vụ việc mâu thuẩn tiến xa hơn.

Tình huống: Có cặp vợ chồng đã đông đủ cháu nội cháu ngoại nhưng chồng hay say xỉn nên chồng đánh vợ như cơm bữa. Hòa giải viên phải đến tận nhà để nói chuyện với ông chồng, lúc đến thì bát đũa, nồi niêu đang vứt loẻng xoẻng ngoài sân vì ông ta vừa say rượu và đánh vợ xong. Biết tình thế không thể ngồi nói chuyện phân bua khúc mắc giữa hai vợ chồng này, hòa giải viên đã đưa pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ra để phân tích mức độ vi phạm nặng nhẹ. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ phân tích gãy gọn, ông chồng đã nhận lỗi và hứa sẽ không đánh vợ nữa.

Kết luận: Những kỹ năng trên đây cần phải rèn luyện và đòi hỏi hòa giải viên phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức bằng nhiều hình thức.

          B. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ

I. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1. Khái niệm, những trường hợp thừa kế theo pháp luật, người thừa kế theo pháp luật

- Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: Không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

(Trong quá trình xây dựng dự thảo, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm vào hàng thừa kế này đối tượng là con dâu, con rể vì đây là những người có đóng góp trực tiếp vào cuộc sống của gia đình, đặc biệt là con dâu. Tuy nhiên, do còn những bất cập (chủ yếu các vấn đề nảy sinh gây chia rẻ trong gia đình) nên luật không đưa vào).

+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

- Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

2. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt

- Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định.

- Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về thừa kế thế vị, thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

- Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác: Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Ông A và bà B là vợ chồng. ông bà có 2 người con: Con trai là C và con gái là D. Anh C kết hôn với chị Đ và sống cùng ông bà AB trên mảnh đất của ông bà rộng 360m2. Chị C đi làm ăn xa và lấy chồng ở tỉnh khác. Năm 1973 ông A mất. Bà B ủy quyền cho con trai là ông C đứng tên trên sổ địa chính để sử dụng mảnh đất này từ năm 1983 và cũng đồng ý cho ông C, chị D (con gái ông bà) không có ý kiến gì. Vợ chồng ông CĐ xây dựng nhà cửa gồm một ngôi nhà hai tầng để ở. Thời gian gần đây, ông C tiến hành làm sổ đỏ mang tên ông. Trong quá trình làm thì bà D ở xa về không đồng ý và đòi chia đất.

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Do không nêu rõ mảnh đất này có trước khi kết hôn hay sau khi kết hôn, nên có 02 trường hợp: Mảnh đất này thuộc tài sản riêng của ông A hoặc mảnh đất thuộc tài sản chung của vợ chồng ông A bà B.

Trường hợp 1:

Nếu mảnh đất được xác định là tài sản riêng của ông A thì toàn bộ diện tích đất được xác định là khối di sản thừa kế của ông A để lại. Do ông A không để lại di chúc nên khối di sản trên được chia theo pháp luật, tức là chia theo hàng thừa kế. Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hàng thừa kế như sau (quy định về hàng thừa kế trong BLDS 2005 giống BLDS 2015):

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Theo quy định trên, bà B, ông C, bà D thuộc hàng thừa kế thứ nhất, do vậy sẽ được hưởng khối di sản bằng nhau, nghĩa là mỗi người được hưởng: 360m2/3 = 120m2.

Ông C được nhận: 120m2 (diện tích đất ông được thừa kế từ cha) + 120m2 (đất bà B nhận thừa kế từ ông A và tặng cho ông C) = 240m2.

Trường hợp thứ 2:

Nếu mảnh đất là tài sản chung của ông A bà B thì di sản ông A để lại chỉ là ½ mảnh đất, ½ còn lại thuộc quyền sử dụng của bà B. Theo đó, nếu chia theo pháp luật, phần di sản mà mỗi người được hưởng từ ông A là: (360/2)/3 = 60m2.

Trong trường hợp này, diện tích đất ông C có quyền sử dụng là 60m2 (thừa kế từ cha) + 60m2 (bà B thừa kế của ông A và tặng cho ông C) + 180m2 (1/2 mảnh đất thuộc quyền sử dụng của bà B trong khối tài sản chung và cho ông C) = 300m2.

Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng ông A mất năm 1973, theo BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó). 

II. THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1. Khái niệm di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

2. Người lập di chúc

Người thành niên có đủ điều kiện: Minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép, có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Người lập di chúc có quyền sau đây:

+ Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

+ Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

+ Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

3. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

a) Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp lập di chúc bằng đánh máy (trước đây chỉ có có viết tay), cụ thể: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

 Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. So với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 đã quy định toàn diện, đầy đủ hơn về trường hợp “người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

- Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực: Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc. Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

+ Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

+ Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực, cụ thể: Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp “di chúc của người đang bị tạm giữ”.

b) Di chúc miệng

Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

4. Di chúc hợp pháp

Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện nêu trên.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

5. Nội dung của di chúc

Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

6. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc; gửi giữ di chúc; di chúc bị thất lạc, hư hại

Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về công chứng. Người giữ bản di chúc có nghĩa vụ: Giữ bí mật nội dung di chúc; giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc; giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp: Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

7. Hiệu lực của di chúc

Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.

8. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.

 Quy định nêu trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định.

9. Di sản dùng vào việc thờ cúng

Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

10. Di tặng

Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm điều kiện “người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế’.

Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

11. Công bố di chúc và giải thích nội dung di chúc

Trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc. Trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.

Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.

Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực. So với Bộ luật năm 2005, Bộ luật năm 2015 sửa đổi quy định về việc giải quyết khi không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong khi Bộ luật năm 2005 quy định: “Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật”.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THỪA KẾ

Ví dụ: Hai cha con ông A và ông B chở nhau đi trên đường thì bị tai nạn giao thông qua đời cùng một lúc. Việc thừa kế của cha và con được hiểu như thế nào? Người con có được thừa kế của người cha không và ngược lại?.

Nếu ông B (người con) có 01 con trai nhỏ. Cháu trai này có được thừa kế tài sản từ người ông không?

1. Người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm; từ chối nhận di sản; người không được quyền hưởng di sản; tài sản không có người nhận thừa kế

a) Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm

Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định.

Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

b) Từ chối nhận di sản

Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

 Bộ luật năm 2015 nêu rõ: Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến (trước đây chỉ yêu cầu thông báo) người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

c) Người không được quyền hưởng di sản

Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Những người trên đây vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

d) Tài sản không có người nhận thừa kế

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.

2. Quyền thừa kế; thời điểm, địa điểm mở thừa kế và di sản

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bổ sung quy định mới: Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

 Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định theo quy định.

Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

3. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

4. Người quản lý di sản

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định nêu trên thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Người quản lý di sản (không phải là cơ quan nhà nước) có nghĩa vụ sau đây:

+ Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

+ Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có nghĩa vụ sau đây:

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

+ Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Bên cạnh các nghĩa vu, người quản lý di sản có các quyền sau đây:

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra; cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý  có quyền sau đây:

+ Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có quyền sau đây:

+ Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

5. Thời hiệu thừa kế

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Quy định gặp vướng mắc khi thực hiện trên thực tế vì thời hiệu khởi kiện 10 năm là quá ngắn để thực hiện quyền khởi kiện. Do đó, quyền lợi của người thừa kế tài sản không được pháp luật bảo vệ. Để được hưởng di sản thừa kế, không ít đương sự đã có những hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội. Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định cụ thể phương án xử lý những di sản thừa kế khi hết thời hiệu 10 năm nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý cũng như số phận thực tế của những di sản này.

Từ bất cập trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra quy định mới về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Cụ thể: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.

+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định trên đây.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

IV. THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

1. Họp mặt những người thừa kế

Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây: Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; cách thức phân chia di sản. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

2. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Bộ Luật năm 2015 sửa đổi về thứ tự ưu tiên thanh toán đối với trường hợp “Chi phí cho việc bảo quản di sản”. Nội dung này được Bộ luật năm 2005 xếp vị trí thứ 9, Bộ luật năm 2015 xếp vị trí thứ 3; sửa đổi, bổ sung chi phí “Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước” thành “Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước”.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

(1) Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

(2) Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

(3) Chi phí cho việc bảo quản di sản.

(4) Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

(5) Tiền công lao động.

(6) Tiền bồi thường thiệt hại.

(7) Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

(8) Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

(9) Tiền phạt.

(10) Các chi phí khác.

3. Phân chia di sản

a) Phân chia di sản theo di chúc

Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

b) Phân chia di sản theo pháp luật

Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

c) Hạn chế phân chia di sản

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp được gia hạn và không hạn chế đối với trường hợp đã kết hôn, cụ thể: Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm (Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế).

d) Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

 

 

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Ngày cập nhật 11/09/2020

MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

 

Ở một nước mà quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” được coi trọng như ở nước ta thì hoạt động hòa giải ở cơ sở sẽ luôn là sợi dây vô hình, bền chặt, góp phần kết nối và giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc. 

I. Bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở

Hoạt động hòa giải cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định chủ trương, phát huy tinh thần dân chủ mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Nhà nước, coi trọng sự đồng thuận của nhân dân, tăng cường đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra các cơ quan Nhà nước giải quyết. Để hoạt động hòa giải trở về đúng tính chất là hoạt động tự quản của nhân dân, do nhân dân tự quyết định trong đó vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở là yếu tố quan trọng, góp phần dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,

Như vậy, không hành chính hóa hoạt động hòa giải ở cơ sở. Hoạt động này phát huy được tính tự quản của cộng đồng dân cư nhưng đồng thời hạn chế được sự tham gia của Nhà nước đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở, đồng thời nâng cao vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với công tác này. Bản chất của hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện của người dân, do người dân tự thực hiện, Nhà nước chỉ hỗ trợ để người dân phát huy ý thức, trách nhiệm của mình trong giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trên địa bàn ngay từ khi mới phát sinh.

II. Các văn bản pháp luật

+ Luật Hòa giải ở cơ sở số 35/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

+ Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 4 năm 2014.

+ Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ngày 30 tháng 7 năm 2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết số 14/2015/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh và Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14 tháng 01 năm 2016 quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

III. Phân biệt hòa giải ở cơ sở với hòa giải khác

Hòa giải ở cơ sở khác với việc hòa giải trong tố tụng và hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai.

1. Theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở, Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định.

Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố).

Các bên là cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật mà theo quy định được hòa giải ở cơ sở.

2. Hòa giải trong tố tụng dân sự được áp dụng đối với các trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình. Trong tố tụng, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc. Hiệu lực của các thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với các bên liên quan. Không được hòa giải trong một số trường hợp: Yêu cầu bồi thường gây thiệt hại tài sản của Nhà nước; những vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự trái pháp luật; bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Thành phần hòa giải là Thẩm phán, Thư ký, đương sự. Việc hòa giải phải được lập biên bản hòa giải thành. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, các bên không thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Thỏa thuận có hiệu lực ngay. Thỏa thuận có thể bị kháng nghị theo tủ tục Giám đốc thẩm nếu có căn cứ thỏa thuận bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật.

(Giám đốc thẩm là xét lại quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng (về tố tụng, về áp dụng pháp luật, không phù hợp tình tiết khách quan của vụ án).

3. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một khâu bắt buộc trước khi tiếp tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2014, quy định hòa giải tranh chấp đất đai tại Điều 202 và 203:

Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

(1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

(2) Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây: Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền:

 Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

4. Quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án

Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, tại Chương XXXIII của Bộ luật này quy định “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”. Theo đó, Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự, tức là sau khi có quyết định công nhận của Tòa án, các bên phải tự nguyện thi hành thỏa thuận của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành của Tòa án; hết thời gian này, bên phải thực hiện nghĩa vụ có điều kiện thực hiện nghĩa vụ mà không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện, bên có quyền được nộp đơn yêu cầu thi hành cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Để hướng dẫn cho các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở (nâng cao hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành ở cơ sở), ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Công văn số 3774/UBND-TP ngày 07/6/2017 để triển khai thực hiện.

Theo đó, để được Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;

- Vụ, việc được hòa giải tuân thủ đúng quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở;

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;

- Có văn bản hòa giải thành. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba;

- Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.

Thời hạn gửi đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là 06 tháng, kể từ ngày lập văn bản hòa giải thành. Cơ quan tiếp nhận đơn yêu cầu là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, làm việc.

- Hiệu lực của Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án:

+ Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

+ Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

+ Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở.

Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

Việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc không gửi đơn yêu cầu.

IV. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Thủ bầu hòa giải viên, có thể nói khá “rườm rà”, phức tạp, cụ thể có 03 bước:

- Bước 1: Chuẩn bị bầu hòa giải viên (Trong thời hạn 20 ngày, trước ngày dự kiến bầu hòa giải viên): Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận dự kiến những người được bầu làm hòa giải viên; thống nhất thời gian bầu hòa giải viên; quyết định hình thức bầu hòa giải viên; quyết định danh sách Tổ bầu hòa giải viên; thông báo công khai danh sách bầu hòa giải viên.

- Bước 2: Tổ chức bầu hòa giải viên: Bầu hòa giải viên bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp được tiến hành khi có trên 50% đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố trở lên tham dự; hoặc bầu hòa giải viên bằng hình thức phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn, Tổ dân phố.

- Bước 3: Kết quả bầu hòa giải viên: Trưởng ban công tác Mặt trận lập hồ sơ về kết quả bầu hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để xem xét, quyết định.

 

Trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

a) Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. Nguyên tắc thể hiện qua việc hòa giải chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của các bên; tôn trọng sự thỏa thuận; trong quá trình thực hiện thỏa thuận cũng không được áp đặt, cưỡng chế.

b) Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi.

c) Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp cần phải thông báo để có biện pháp phòng ngừa khi mâu thuẩn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng; để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự.

Phân tích về bí mật thông tin đời tư:

Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình:

1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Phạm vi và nội hàm đặc trưng của đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình không được quy định rõ ràng dẫn tới có nhiều vướng mắc trên thực tiễn.

Ví dụ như vướng mắc trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học sinh có phải bí mật cá nhân, đời sống riêng tư’’ hay không. Vấn đề này thời gian vừa qua được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường trung học phổ thông và cơ quan báo chí rất quan tâm khi công bố công khai điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông của thí sinh. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em, tại Điều 33 quy định “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em”. Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên 16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không. Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí sinh trên 16 tuổi.

- Việc xác định các hành vi nào là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc không xâm phạm còn chưa có những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể mà chủ yếu nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Qua rà soát, nghiên cứu những biểu hiện sau đây là hành vi xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư : (1) Hành vi thu thập, công bố các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân không được sự đồng ý của người đó hoặc của nhân thân cá nhân trong trường hợp cá nhân chết, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật ; (2) Hành vi xâm phạm bất hợp pháp chỗ ở của cá nhân ; (3) Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân. Tuy nhiên ở nước ta và ngay cả một số quốc gia tiến bộ, việc xác định hành vi xâm phạm không hề dễ dàng và thường gây nên sự tranh cãi của công chúng và khi xét xử vụ việc cụ thể nào đó thường do thẩm phán quyết định dựa trên kinh nghiệm và tương tự pháp luật. Thời gian vừa qua có một số vụ việc còn có nhiều quan điểm tranh luận xoay quanh như:

Các thông tin liên quan đến tổng tài sản của cá nhân và hành vi công khai thông tin có bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không còn có tranh cãi. Báo Đại Đoàn Kết có đưa tin về ‘‘Những người giàu nhất Việt Nam’’. Có quan điểm cho rằng pháp luật không buộc cá nhân phải công khai tài sản của mình trừ khi được sự đồng ý của họ, ngoại trừ một số trường hợp cá nhân phải công khai tài sản theo quy định của pháp luật hoặc buộc chứng minh nguồn gốc tài chính; quan điểm khác cho rằng tổng tài sản của những người giàu nhất Việt Nam đã được thể hiện công khai thông qua những thông tin dữ liệu được công khai ví dụ như tổng số cổ phiếu niêm yết tại sàn chứng khoán, hay tổng số bất động sản góp vốn vào công ty… do đó tổng tài sản của những người này được phép công khai mà không cần xin phép họ.

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đặc biệt là hình ảnh liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng được đưa ra tranh luận bởi lẽ sự phân định giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền tự do báo chí còn chưa có quy định rõ ràng. Hoặc thậm chí việc đăng tải hình ảnh của cá nhân phạm tội lên trên báo chí hoặc mạng xã hội cũng là một vấn đề còn tranh cãi.

Ngày 20/7/2017, Bộ Tư pháp tổ chức họp báo định kỳ để thông tin về công tác tư pháp quý II/2017. Người phát ngôn Bộ Tư pháp, Chánh Văn phòng Bộ Đỗ Đức Hiển chủ trì buổi họp báo cùng sự tham dự của đại diện lãnh đạo nhiều đơn vị liên quan thuộc Bộ để trả lời hàng loạt vấn đề mà dư luận quan tâm trong thời gian qua. Về vấn đề liên quan giữa bảo vệ bí mật đời tư với công khai điểm thi của thí sinh thi tốt nghiệp THPT quốc gia, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế Nguyễn Hồng Hải quan niệm, Bộ luật Dân sự năm 2015 tuy có quy định nguyên tắc về bảo vệ bí mật đời sống riêng tư nhưng thế nào là đời sống riêng tư thì Bộ luật không quy định mà việc quy định cụ thể sẽ do các luật chuyên ngành hướng dẫn. Đối với công bố điểm thi, theo Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định hướng dẫn Luật, với học sinh dưới 16 tuổi thì thông tin về kết quả học tập là thông tin đời sống riêng tư và thông tin này được bảo vệ theo nguyên tắc thông tin cá nhân. Học sinh từ 16 tuổi trở lên thì hiện không có quy định cụ thể nào nói đây là thông tin đời sống riêng tư cần bảo vệ. Việc công khai điểm thi của học sinh từ 16 – 18 tuổi có bị cấm hay không thì phải có điều luật quy định cụ thể. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm quốc tế, ông Hải nhận thấy các nước thường xây dựng 1 trang web điện tử trực tuyến, những cá nhân cần biết điểm sẽ tra bằng số báo danh, số ID của mình. “Để hạn chế những rủi ro không cần thiết đối với lợi ích nhân thân, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kịp thời nghiên cứu hoàn thiện vấn đề này”.

Ở nước ngoài, nhiều nước chưa có khái niệm rõ ràng về vấn đề này và nhiều nước khi xét xử áp dụng án lệ. Vụ việc diễn ra tại thành phố Dortmund Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến việc xác định hành vi có xâm phạm đời sống riêng tư của cá nhân như sau: ông Robert xây một khu xông hơi sau vườn, mỗi lần tới đây, ông quyết định không mặc quần áo mà khỏa thân đi vào phòng xông hơi. Hàng xóm nhiều lần chứng kiến hành động này và họ cảm thấy không hài lòng và họ quyết định khởi kiện lên Tòa án thành phố Dortmund vì “không thể chịu nổi hình ảnh khỏa thân” của Robert. Thẩm phán nói rằng mỗi tuần ông Robert sử dụng phòng xông hơi 2 lần và việc khỏa thân theo tần suất này là “chấp nhận được”. Thẩm phán nói rằng không hề thấy dấu hiệu vi phạm hình sự trong trường hợp này và ông Robert hoàn toàn có quyền được khỏa thân đi lại tự do trong vườn nhà mình. Tuy nhiên hàng xóm nói Robert thường xuyên say xỉn, không chịu xây toilet và thường đi vệ sinh vào những bụi việt quất ông trồng. Thẩm phán đáp lời rằng luật pháp không cấm việc một người đi vệ sinh trong vườn nhà của ông ta. Vụ việc kết thúc và luật sư của ông Hans nói rằng “đây là một trải nghiệm đau buồn”.
        Vụ việc tại thành phố Ottawa vào tháng 10/2017, một viên chức thành phố có tên Dunn bị Thành phố Ottawa yêu cầu tiết lộ tất cả các email được gửi hoặc nhận bởi Rick O'Connor - một Luật Sư Thành Phố, bởi lẽ email này do Thành phố cấp cho Dunn để làm việc, và có dấu hiệu nghi ngờ Dunn đã tiết lộ một số thông tin bí mật của Thành phố. Qua nhiều lần tranh luận tại Tòa, thẩm phán đã phán quyết rằng khó phân biệt giữa "thông tin cá nhân và tài liệu của nhân viên được lưu trữ dưới hình thức giấy trong tủ hồ sơ của chính phủ và bàn làm việc và các hồ sơ lưu trữ dưới dạng điện tử trong hệ thống máy tính do chính phủ sở hữu và nội dung liên lạc qua email giữa O'Connor và Dunn không liên quan gì đến các vấn đề kinh doanh của thành phố. Do đó, việc tiết lộ nội dung trong email của Dunn sẽ vi phạm quyền riêng tư của O'Connor và Dunn".

Bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín…

Tình huống:

Thời gian gần đây, chị B nhận thấy những biểu hiện khác thường ở anh A – chồng chị B. Ở nhà, anh thường lạnh nhạt, ít nói, hay cáu gắt với vợ con hơn trước. Chi B sinh nghi chồng mình có người phụ nữ khác, hai vợ chồng thường xuyên to tiếng với nhau. Chi B ôm con về nhà mẹ đẻ.

Giả sử có 02 trường hợp:

TH1: Sau khi gặp gỡ với anh A, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A. Do trong một lần tụ tập bạn bè, không làm chủ được hành vi của mình, anh đã có quan hệ với một tiếp viên, sau đó biết được cô gái này bị HIV. Từ đó, vừa lo lắng, vừa ân hận, không biết mình đã bị lây nhiễm chưa, và vợ mình có bị không. Trường hợp này hòa giải viên phải khuyên giải anh A đi xét nghiệm và không được tiết lộ về thông tin này vì nó ảnh hưởng nghiêm trọng tói cuộc sống của anh A và những người xung quanh.

TH2: Sau khi tìm hiểu, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A là do có người phụ nữ khác, thường xuyên qua lại với người này. Trường hợp này anh A vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

d) Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

đ) Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Quy định về bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở là nội dung mới so với quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở trước đây, phù hợp với yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ và pháp luật về bình đẳng giới. Bình đẳng giới thể hiện trong tổ chức và trong hoạt động. Trong tổ chức, phải có hòa giải viên nữ tham gia tổ hòa giải; trong hoạt động hòa giải các vụ việc, phải xét đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em.

e) Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.

V. Kinh phí và chế độ của Tổ hòa giải, hòa giải viên

1. Nguồn kinh phí hỗ trợ

Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở; chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc và hỗ trợ các chi phí cần thiết khác cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.

2. Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên

Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên bao gồm:

- Chi hỗ trợ cho hòa giải viên bao gồm: Chi hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc; chi hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải;

- Chi hỗ trợ tổ hòa giải để mua tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ hoạt động của tổ hòa giải; tổ chức các cuộc họp, sơ kết, tổng kết hoạt động của tổ hòa giải;

3. Mức chi hỗ trợ

Hiện nay, Thông tư hướng dẫn về nội dung chi và mức chi trong công tác hòa giải đang được Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính phối hợp ban hành. Do đó, văn bản áp dụng ở địa phương hiện nay vẫn là Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 về việc quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.

Một số mức chi cụ thể như sau:

- Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải):

+ Hòa giải thành: 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải;

+ Hòa giải không thành: 150.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải.

- Hỗ trợ chi phí mai táng cho người tổ chức mai táng hòa giải viên gặp tai nạn hoặc rủi ro bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở: Mức chi bằng 05 tháng lương cơ sở.

- Chi hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải (chi mua văn phòng phẩm, sao chụp tài liệu, nước uống phục vụ các cuộc họp của tổ hòa giải): 100.000 đồng/tổ hòa giải/tháng.

- Chi bồi dưỡng thành viên Ban tổ chức bầu hòa giải viên tham gia họp chuẩn bị cho việc bầu hòa giải viên: 50.000 đồng/người/buổi.

- Chi tiền nước uống cho người tham dự cuộc họp bầu hòa giải viên: 10.000 đồng/người/buổi.

4. Điều kiện hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ, việc của hòa giải viên

- Vụ, việc được tiến hành hòa giải và đã kết thúc theo quy định.

- Hòa giải viên không vi phạm nghĩa vụ của hòa giải viên.

Như vậy, cần lưu ý rằng, một vụ việc dù được hòa giải thành hay không nhưng đáp ứng các điều kiện trên thì được hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ việc.

5. Phương thức và thủ tục hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên

- Việc hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên được thực hiện sau khi vụ, việc hòa giải kết thúc.

- Hồ sơ thanh toán hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên:

Nhìn chung, hồ sơ thanh toán là những chứng từ (giấy tờ, hóa đơn) liên quan chứng minh công việc đã thực hiện theo yêu cầu, bao gồm:

+ Tổ trưởng tổ hòa giải lập hồ sơ đề nghị thanh toán thù lao cho hòa giải viên, bao gồm: Giấy đề nghị thanh toán thù lao của hòa giải viên có ghi rõ họ, tên, địa chỉ của hòa giải viên; tên, địa chỉ tổ hòa giải; số tiền đề nghị thanh toán; nội dung thanh toán (có danh sách các vụ, việc trong trường hợp đề nghị thanh toán thù lao cho nhiều vụ, việc); chữ ký của hòa giải viên; chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải và xuất trình Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để đối chiếu khi cần thiết.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định và trả thù lao cho hòa giải viên thông qua tổ hòa giải; trường hợp quyết định không thanh toán cho hòa giải viên thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Tổ hòa giải trả thù lao cho hòa giải viên theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được thù lao.

6. Các trường hợp hòa giải viên được hưởng hỗ trợ, tạo điều kiện khắc phục hậu quả khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Trường hợp được hỗ trợ

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trong khi đang thực hiện hòa giải.

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trên đường đi và về từ nơi ở đến địa điểm thực hiện hòa giải trên tuyến đường và trong khoảng thời gian hợp lý.

- Các khoản được hỗ trợ

Hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ như sau:

+ Chi phí cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; nếu thu nhập thực tế của hòa giải viên không ổn định hoặc không thể xác định được thì áp dụng cách tính theo thu nhập bình quân hàng ngày của người làm công ăn lương chia theo khu vực thành thị, nông thôn, loại hình kinh tế ngoài nhà nước trong thời gian cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút.

Gia đình của hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ một lần bằng tiền để chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc hòa giải viên trước khi chết; người tổ chức mai táng được hỗ trợ chi phí cho việc mai táng.

7. Thủ tục thực hiện hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Hồ sơ

+ Giấy đề nghị hỗ trợ của hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng có xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc Trưởng ban công tác Mặt trận trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại là tổ trưởng tổ hòa giải. Giấy đề nghị hỗ trợ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người yêu cầu hỗ trợ; lý do yêu cầu hỗ trợ;

+ Biên bản xác nhận tình trạng của hòa giải viên bị tai nạn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra tai nạn hoặc cơ quan công an nơi xảy ra tai nạn (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Giấy ra viện, hóa đơn thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Văn bản, giấy tờ hợp lệ về thu nhập thực tế theo tiền lương, tiền công hằng tháng của người bị tai nạn có xác nhận của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp), bao gồm: Hợp đồng lao động, quyết định nâng lương của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động hoặc bản kê có thu nhập thực tế của hòa giải viên bị tai nạn và các giấy tờ chứng minh thu nhập thực tế hợp pháp khác (nếu có);

+ Giấy chứng tử trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp).

- Hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ  đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã ra quyết định công nhận hòa giải viên.

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện kèm theo hồ sơ đề nghị hỗ trợ.

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, ra quyết định hỗ trợ; trường hợp không hỗ trợ thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Chậm nhất sau 03 ngày làm việc, kể từ ngày ngày nhận được quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc chi tiền hỗ trợ.

VI. Một số kỹ năng hòa giải ở cơ sở

1. Kỹ năng hòa giải là một yếu tố quan trọng trong công tác hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng. Kỹ năng hòa giải tốt sẽ giúp phát huy tốt hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở; ngược lại, có thể làm cho sự việc không chỉ hòa giải không thành mà còn có thể gây nên những hậu quả khó lường.

Câu chuyện thực tế:

Một vụ việc khiến hòa giải viên buồn và “sốc”, đó là chuyện chồng rượu chè thường xuyên đánh đập vợ, dẫn đến, người vợ "tức nước vỡ bờ", không làm chủ được hành vi đã “xuống tay” giết chồng.

Chị Minh là người phụ nữ rất đảm đang, tháo vát. Chị lấy anh Hòa, sinh được được một bé gái thì chị Minh không thể chịu đựng nổi tính tình côn đồ, thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ của ông Hòa. Chị bỏ chồng, đi xã làm ăn. Đứa con chung của hai người ở cùng bố không lâu thì mất.

Ông Hòa đi lấy vợ hai thì sinh thêm được một con gái. Nhưng với bản tính của ông Hòa, dường như khó có người phụ nữ nào chung sống được lâu dài. Thế nên chỉ sau một thời gian ngắn gắn bó, ông Hòa và vợ hai chia tay. Ông Hòa đón chị Minh về “nối lại tình xưa”. Vì vẫn còn tình cảm với ông Hòa nên chị Minh về sống cùng, sau đó sinh được thêm 2 người con.

Là người giỏi thu vén nên kinh tế trong gia đình đa phần do một tay chị Minh tạo dựng. Ông Hòa vốn bê tha rượu chè nên không chỉ không giúp đỡ kinh tế cho vợ mà còn thường xuyên bị “ma men” điều khiển, đánh đập vợ con.

Chị Minh cứ sắm sửa được cái gì, ông lên cơn say là đập nát hết. Những lần mới cãi vã, người trong thôn trong xóm còn tới can thiệp, khuyên giải, Tổ hòa giải cũng vào cuộc nhiều lần nhưng hòa thuận được mấy hôm rồi  vẫn “đâu lại vào đấy” nên không ai còn  thiết tha với chuyện cãi nhau như cơm bữa của gia đình ông Hòa bà Minh nữa.

Chị Thơm là Hòa giải viên vẫn ghé qua để trò chuyện với bà Minh và ông Hòa. Chị đã khuyên giải và mong muốn hai vợ chồng ông Hòa và bà Minh cố gắng làm ăn. Nhất là ông Hòa không còn rượu chè nữa, hãy tu chí làm ăn giúp đỡ bà Minh. Nghe chị Thơm nói, cả hai ông bà đều gật đầu quyết chí. Nhưng lại được mấy hôm chị Thơm lại phải chứng kiến cảnh vợ chồng ông bà cãi vã, xô xát nhau.

Khi “con giun xéo lắm cũng quằn”, trong một lần bị chồng đánh đập, chửi bới rồi đem hết quần áo của mình ra sân đốt, bà Minh đã cầm kéo đâm chồng khiến nạn nhân tử vong.

Hoặc có trường hợp chị ham làm công tác xã hội thường xuyên đi làm về muộn, ít có thời gian chăm sóc gia đình và các con. Anh chồng khó chịu, thường mắng chửi vợ. Chị vợ lại nóng tính, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau ảnh hưởng đến an ninh, trật tự thôn xóm.

Thực tế có rất nhiều các trường hợp phải nhờ đến hòa giải viên, hôn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, các tranh chấp nhỏ... Và thực tế công tác hòa giải ở cơ sở cũng hết sức vất vả. Đây được ví như công việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nhưng có những trường hợp khi hòa giải thì hòa giải viên bị những người trong cuộc chửi bới, dọa đánh, đe dọa... Chế độ thì rất ít, có khi còn không có, nhưng trách nhiệm lại nặng nề và đòi hỏi hòa giải viên phải có các kỹ năng nhất định. 

2. Khái niệm kỹ năng hòa giải

Kỹ năng hòa giải là khả năng của hòa giải viên vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội, bằng sự nêu gương của mình và kinh nghiệm cuộc sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp, mâu thuẩn, nhằm xóa bỏ bất đồng và đạt được thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật ở cơ sở.

3. Một số kỹ năng hoà giải ở cơ sở cần lưu ý

(1) Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội.

Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội là một kỹ năng rất quan trọng, không thể thiếu trong công tác hòa giải ở cơ sở. Bất kỳ một vụ việc hòa giải nào cũng cần viện đến kiến thức pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội.

Từ thực tiễn hòa giải cho thấy, các vụ việc mâu thuẩn xảy ra phổ biến nhất là trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Xã hội càng hiện đại thì dường như chuyện tan vỡ gia đình ngày càng phổ biến hơn. Trước ở làng ở quê hiếm lắm mới thấy có đôi trục trặc dẫn tới bỏ nhau song hiện giờ số vụ đã nhiều hơn. Mỗi năm, có nhiều các vụ hòa giải từ to đến nhỏ: ghen tuông, cãi vã cho tới việc quyết định ly hôn.

Cái khó của những hòa giải viên cơ sở chính là người dân ở nhiều thôn quê, làng xã trình độ dân trí còn thấp, vẫn "trọng nam khinh nữ", người đàn ông quen sống gia trưởng, người phụ nữ luôn luôn chịu nhịn nhục, để người chồng hành hung. Hoặc là người phụ nữ vì quá uất ức, quẫn trí nên đã có những hành động thiếu suy nghĩ....

Để hòa giải các cặp đôi "sứt mẻ" thành công, hòa giải viên phải bàn họp, nghĩ nhiều cách khác nhau.

Các hòa giải viên mong muốn giúp những cặp vợ chồng trong thôn quê của mình hiểu rõ về pháp luật, nhất là pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. Họ chịu nghe lời của các hòa giải viên để sống tốt hơn, đầm ấm hơn. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết hòa giải viên cần báo cáo cư quan chức năng can thiệp sớm vào các vụ việc để không có những hậu quả đau lòng xảy ra.

Ví dụ về hậu quả nếu không can thiệp kịp thời

Ví dụ 1: Qua mai mối, Khánh quen biết vợ tên là Lan Anh, là một cô gái hiền lành, ít nói, đang làm công nhân may. Sau khi lấy nhau, vợ chồng Khánh đã được gia đình nhà vợ cho mượn một ngôi nhà để ở với đầy đủ tiện nghi. Sau đó, Khánh có bồ và vì vậy mà những cuộc cãi vã, xô xát xảy ra thường xuyên. Thậm chí có lúc bồ của Khánh còn nhắn tin vào máy điện thoại di động xui Khánh bỏ vợ và không được có con với vợ. Trong một lần tình cờ, Lan Anh đọc được cái tin nhắn này trong điện thoại của Khánh nên 02 vợ chồng cãi nhau, dẫn đến xô xát và Khánh đã đánh chết vợ.

Ví dụ 2: Hai vợ chồng anh Tuyên làm xe ôm, còn chị Huệ thì buôn bán vặt vãnh, nuôi 02 đứa con. Tiền kiếm được không đáng là bao mà Tuyên thì lại ham mê lô đề. Chị Huệ khuyên bảo mãi không được và cũng vì chuyện đó mà hai vợ chồng cãi vã. Bực tức, Tuyên đã xuống tay giết vợ rồi nói dối hai con là mẹ đã bỏ ba bố con để đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc. Sự thật chỉ được phát hiện cho tới khi những phần máu thịt đớn đau của người mẹ xấu số đó sau nhiều ngày bị dìm xuống hồ sâu đã nổi lên mặt nước và được quần chúng nhân dân phát hiện.

Ví dụ 3: Nếu như đấm, đá, đập... được coi là lối bạo hành truyền thống thì nay, trong thời đại của công nghệ, nhiều kiểu bạo hành quái đản đã nảy sinh. Khi kết hôn với nhau, cả ông D. và chị P. đều đã trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc và mỗi người đều đã có một con riêng. Tưởng sau những bất hạnh, cuộc hôn nhân lần này sẽ mang đến hạnh phúc. Nhưng không, chỉ sau một thời gian không dài thì cuộc sống chung bắt đầu cơm không lành, canh không ngọt.

Không giống như nhiều người phụ nữ khác, chị không phải hứng chịu những trận đòn thừa sống thiếu chết của chồng. Không phải chịu nỗi đau về thể xác nhưng người đàn ông này đã ra những đòn bạo hành về tinh thần rất quái đản để hành hạ chị. Đầu tiên là ông ta thay toàn bộ khóa cửa nhà để mẹ con chị mất chỗ cư trú. Sau đó, ông ta bắt đầu tự chế tạo ra hàng loạt những tờ rơi có tiêu đề là "Thư mời" với nội dung: Chị P. là gái gọi, kèm theo địa chỉ, số điện thoại "để khách làng chơi tiện liên hệ". Cùng với các "thư mời", ông D. còn chế tạo ra các tờ "cáo phó" với nội dung thông báo là chị P. đã chết và các "thư gửi" đề tên người nhận là mẹ đẻ của chị P. với nội dung lăng mạ bà. Tất cả các "thư mời", "thư gửi", "cáo phó" này, ngoài việc dán ở gia đình cha mẹ đẻ chị P., ông ta còn đem rải ở nhiều địa điểm nơi chị P. từng sinh sống và gửi đến trường học nơi con gái chị P. đang theo học.

Ngón đòn hành hạ quái đản của người chồng đã khiến hai mẹ con chị P. suy sụp, phải bỏ nhà ra đi đến ở tại ngôi nhà tạm lánh của Hội phụ nữ. Dù không bị đánh đập tàn nhẫn nhưng các chuyên gia tư vấn cho rằng, đòn bạo hành mà chị P. phải gánh chịu thậm chí còn nặng nề hơn rất nhiều. Bởi, nếu những vết thương về thể xác, thời gian và nững can thiệp về y tế hoàn toàn có thể chữa lành được còn những vết thương tinh thần thì không...

Ví dụ 4: Còn đây là một ngón đòn bạo hành khác mà câu chuyện của nạn nhân này đã từng được đưa ra bàn luận tại nhiều cuộc hội thảo về bạo hành gia đình. Đó là câu chuyện về một người chồng đã tỏ ra rất bình tĩnh khi tận mắt chứng kiến vợ ngoại tình. Không đánh mắng vợ, cũng không gây chiến với tình địch bằng vũ khí, anh ta chỉ nhẹ nhàng xin tình địch 10 nghìn đồng và đón vợ về nhà. Cuộc sống gia đình tưởng như vẫn yên ổn. Chỉ khác là trong tất cả các bữa ăn của gia đình, tờ tiền 10 nghìn luôn luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Bất kể khi nào, các con cần tiền để đóng học, để mua sách vở... thì anh đều chỉ vào tờ tiền này và nói: "Tiền này do mẹ kiếm được đấy, các con cứ lấy mà chi dùng, rồi mẹ sẽ tiếp tục kiếm thêm". Cứ như thế, nhiều tháng sau khi bị chồng tra tấn bằng ngón đòn êm ái này, người vợ đã tự vẫn...

Ví dụ 5: Nhưng kinh hoàng và đen tối nhất là âm mưu của người chồng trong một vụ án hết sức thương tâm xảy ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc. Có anh chàng người dân tộc may mắn cưới được một cô vợ khá xinh đẹp. Một lần, phải đi xa nhà, sợ vợ ngoại tình, anh ta đã bí mật gài một quả lựu đạn dưới dát giường với toan tính tàn ác, nếu vợ mà rước giai về ngủ chung, trọng lượng tăng gấp đôi, dát giường sẽ trĩu xuống và cọ vào kíp nổ làm cho lựu đạn nổ, kết liễu đời cả đôi gian phu dâm phụ. Nhưng, khốn thay, thấy chồng đi vắng, chị vợ đã băng qua một quả đồi, đón mẹ chồng đưa bà về ngủ chung cho bớt cô quạnh. Và, lựu đạn nổ khi bà mẹ chồng và cô con dâu vừa đặt lưng xuống chiếc giường oan nghiệt đó...

(2) Kỹ năng về vận dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ hoà giải

* Câu chuyện thứ nhất: Nhà anh Thịnh sắp đến ngày giỗ bố, anh Thịnh ra chợ làng mua được một con gà trống tía rất ưng ý. Để đề phòng gà xổng chuồng đi mất, anh chặt lông đuôi, lông cánh rồi cẩn thận nhốt gà vào lồng (bội gà) để ở góc vườn. Ấy thế mà chẳng hiểu sao ngay chiều hôm đó, anh đã thấy con gà ung dung đi lại trong góc sân nhà anh Mạnh. 

Tuy hai nhà là hàng xóm, cũng chưa từng xảy ra điều tiếng gì nhưng xưa nay anh Thịnh ít qua lại nhà anh Mạnh. Biết tính anh Mạnh ham cờ bạc, lại hay qua lại với những người có tiếng là “cộm cán” trong vùng nên dù có tiếc con gà, anh Thịnh cũng chỉ quát tháo vài câu trong nhà cho đỡ bực.

Nhưng chị Nhung vợ anh Thịnh thì không chịu được. Chị ra ngay đầu ngõ kể với mấy bà hàng xóm chuyện “làng này có kẻ nhẫn tâm ăn của cả người chết”. Rồi câu chuyện “ăn của cả người chết” lan nhanh như điện, đến tối thì cả làng đều biết nhà Mạnh “bất nhân, bất nghĩa”. 

Chưa ai hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao thì tối hôm đó cả làng đã được một phen khiếp vía khi anh Mạnh cởi trần, mình đầy xăm trổ, tay lăm lăm con dao bầu quyết sang nhà anh Thịnh “xin tý tiết”. 

Nhận được tin báo, các hòa giải viên của thôn lập tức có mặt để hỏi rõ sự tình. Thấy ông Thông hòa giải viên đến, anh Mạnh có phần dịu lại vì ông Thông vốn là người có uy tín trong làng. Ông đề nghị hai nhà cùng ngồi lại để hỏi rõ ngọn ngành. Thì ra, do anh Thịnh không chặn kỹ nên con gà trống tía đã lách được ra khỏi lồng, chạy sang sân nhà anh Mạnh kiếm mồi. 

Anh Mạnh tức vì bị vu là ăn trộm gà, “ăn của cả người chết” nên định sang cho anh Thịnh một trận. Còn chị Nhung vì tiếc con gà nên trong lúc “loan tin” với các bà hàng xóm đã nhỡ miệng nói nhiều câu xúc phạm tới nhà anh Mạnh. 

Hiểu ra câu chuyện, ông Thông nhẹ nhàng phân tích cái hơn, cái thiệt, cái lý, cái tình cho chị Nhung, anh Mạnh. Lúc này, chị Nhung mới tiếc giá như mình đừng vội vàng “nhỏ to, buôn chuyện” mà sang ngay nhà anh Mạnh hỏi kỹ ngọn ngành thì mọi chuyện đã không nên nỗi. Nghe chị Nhung xin lỗi, anh Mạnh vui vẻ gọi ngay con trai mang gà sang trả lại anh Thịnh và còn hứa đến ngày giỗ bố anh Thịnh nhất định sẽ sang ăn cỗ. 

Chuyện “bé xé ra to” như con gà đi lạc của nhà anh Thịnh chỉ là một trong vô vàn câu chuyện mà hàng ngày các hòa giải viên ở cơ sở phải miệt mài hóa giải. 

Kinh nghiệm: Trong trường hợp trên, anh Thông là hòa giải viên đã vận dụng Kỹ năng hòa giải (nắm bắt tình hình sự việc, tổ chức đối thoại, giúp hai bên hiểu rõ vấn đề để các bên có thể loại bỏ mâu thuẩn).

(3) Kỹ năng tư vấn pháp luật

 Anh T và chị H vốn là những người hàng xóm liền kề, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Kể từ khi anh T xây lại nhà mình thành một ngôi nhà 3 tầng khang trang, tình cảm giữa hai nhà không còn như cũ nữa. Không rõ nguyên nhân chính xác của việc một bên tường nhà chị H bị nứt, phải sửa chữa lại thì mới đảm bảo an toàn. Chị H cho là tại nhà anh T xây lại nhà, nên nhà chị mới như vậy. Về phía anh T thì kiên quyết không nhận phần lỗi về mình. Nhận được thông tin, tổ hòa giải ở cơ sở sau khi tìm hiểu vụ việc, đã chủ động đến hỏi chuyện cùng hai gia đình anh T và chị H.

Buổi đầu tiên, hòa giải viên đã mời tổ trưởng khu phố, hai gia đình anh T và chị H cùng hai gia đình hàng xóm của họ. Cuộc nói chuyện diễn ra tại nhà chị H. Tổ hòa giải để cho hai gia đình anh T và chị H phát biểu quan điểm trước. Anh T khăng khăng cho rằng nhà mình không có lỗi, tường nhà chị H nứt là do nhà ấy xây không vững. Còn chị H chứng minh từ khi anh T xây nhà thì nhà mình mới xảy ra hiện tượng nứt tường. Bằng tình cảm xóm giềng, tổ hòa giải đã khuyên nhủ hai gia đình nên thông cảm cho nhau và anh T đồng ý bồi thường cho chị H tu sửa nhà, thống nhất sau 01 tuần sẽ trả lời chính thức cho Tổ hòa giải. Biên bản cuộc họp đã được lập.

Buổi thứ hai, anh T thay đổi ý kiến, không bồi thường cho chị H nữa vì theo người họ hàng làm địa chính của anh T thì anh T không phải bồi thường. Chị H không đồng ý, hai bên đã có lời nói xúc phạm nhau. Anh T nhất quyết mang vụ việc ra tòa án giải quyết. Tổ hòa giải đề ra phương án: Để hai bên suy nghĩ, thương lượng 01 tuần, nếu không được thì đưa vụ việc ra tòa án giải quyết.

Buổi thứ ba, anh T kiên quyết không thay đổi ý kiến. Tổ hòa giải thuyết phục nhưng không thành, hướng dẫn hai bên làm thủ tục để khởi kiện đến tòa án.

Kinh nghiệm:

Về phương thức hòa giải: Tổ hòa giải mới chỉ dùng lý lẽ, chưa áp dụng quy định pháp luật để dẫn chứng, cụ thể là Điều 267 về “Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng” và Điều 268 “Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề” của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Mời thêm thành phần tham gia hòa giải: Tổ hòa giải có thể tìm hiểu nhân thân của người họ hàng làm địa chính của anh T hoặc cán bộ làm công tác địa chính, xây dựng, mời họ tham gia hòa giải, giải thích rõ ràng quy tắc xây dựng và những ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Qua đó, làm rõ mối quan hệ nhân quả trong việc anh T xây nhà 3 tầng và sự nứt tường của nhà chị H. Có như vậy mới thuyết phục được anh T.

Như vậy, với việc vận dụng quy định pháp luật về trách nhiệm trong xây dựng công trình liền kề và mời người có chuyên môn, uy tín tham gia hòa giải nhằm giải thích các vấn đề liên quan một cách chi tiết thì công tác hòa giải sẽ hiệu quả hơn.

(4) Kỹ năng yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc

Để đưa ra lời khuyên (tư vấn) chính xác, đúng pháp luật thì hòa giải viên phải đề nghị đối tượng cung cấp đầy đủ các tài liệu (nếu có) phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp.

Phần lớn các vụ việc tranh chấp thường có các tài liệu như văn bản, thư từ giao dịch...  liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ, tài liệu này là những chứng cứ pháp lý thể hiện nội dung, bản chất của vụ việc hoặc phản ánh diễn biến và quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, có những vụ việc đối tượng chỉ trình bày vụ việc một cách chung chung, chưa muốn cung cấp cho hòa giải viên những văn bản, chứng cứ mà họ cho rằng không có lợi cho mình. Vì vậy, hòa giải viên cần thuyết phục để họ cung cấp đầy đủ. Nếu các bên tranh chấp không cung cấp những tài liệu này thì việc hòa giải khó chính xác và đúng pháp luật.

Sau khi đối tượng đã cung cấp đầy đủ văn bản, tài liệu liên quan, hòa giải viên phải đọc, nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu đó. Trong khi đọc có thể hình thành luôn giải pháp hoà giải trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của vấn đề đưa ra. Đối với những tài liệu mà hòa giải viên không hiểu, không đọc được hoặc có nghi ngờ về tính chân thực của nó thì cần hỏi lại đối tượng để khẳng định ngay. Trong mọi trường hợp, khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho đối tượng thì hòa giải viên không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.

(5) Kỹ năng tra cứu tài liệu tham khảo (Cách tìm văn bản, điều luật áp dụng)

Để đưa ra lời tư vấn pháp luật chính xác, việc tra cứu tài liệu pháp luật trong quá trình hòa giải là điều kiện bắt buộc bởi vì để khẳng định với các bên tranh chấp rằng hòa giải viên đang thực hiện hòa giải theo pháp luật, trên cơ sở pháp luật chứ không theo cảm tính chủ quan, duy ý chí của mình. Ngoài ra, việc tra cứu tài liệu pháp luật có liên quan đến vụ việc hòa giải sẽ giúp hòa giải viên kiểm tra tính chính xác những tư duy và khẳng định chính thức những lời tư vấn của mình là đúng pháp luật vì trong thực tiễn, không phải bao giờ hòa giải viên cũng có thể nhớ chính xác tất cả các quy định thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nếu thấy cần thiết hoặc các bên yêu cầu, thì hòa giải viên có thể cung cấp cho các bên bản sao văn bản, tài liệu đó cùng với lời tư vấn mà mình đưa ra trong trường hợp không tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó thì hòa giải viên có thể chưa đưa ra lời khuyên ngay mà hẹn đối tượng vào một dịp khác để khẳng định lại tính hợp pháp của văn bản pháp luật cần áp dụng.

Trường hợp vụ việc hòa giải có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà hòa giải viên chưa hiểu sâu, thì nên gặp các nhà chuyên môn hay đồng nghiệp khác mà am hiếu sâu về lĩnh vực pháp luật đó để tham khảo ý kiến trước khi đưa ra lời tư vấn, tránh tình trạng hòa giải viên chưa nắm vững pháp luật mà vẫn đưa ra lời tư vấn, giải đáp pháp luật dẫn đến việc hòa giải không chính xác, không đúng pháp luật, trái với nguyên tắc hòa giải, gây hậu quả cho các bên tranh chấp.

Kinh nghiệm: Đối với các tranh chấp thông thường, đó là Bộ luật Dân sự; đất đai có Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn; Hành chính là Luật Xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định xử phạt các lĩnh vực; hình sự Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.

(6) Kỹ năng xem xét, xác minh vụ việc

Việc xem xét, xác minh vụ việc trong hòa giải ở cơ sở chỉ áp dụng đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật hoặc đã được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân giúp đỡ giải quyết mà các bên vẫn không thỏa thuận được với nhau trong cách giải quyết tranh chấp. Việc xem xét, xác minh vụ việc chỉ được tiến hành sau khi đã nghe cả hai bên trình bày, xem xét các giấy tờ, tài liệu các bên cung cấp, hòa giải viên thấy chưa đủ cơ sở để tư vấn, đưa ra những giải pháp, cần phải tiến hành xem xét, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và những người có liên quan để tìm hiểu rõ bản chất vụ việc, tránh vội vàng đưa ra những kết luận phiến diện, chủ quan.

Quá trình xem xét, xác minh vụ việc đòi hỏi hòa giải viên phải thực sự khách quan, vô tư, nhất là khi tiếp xúc với những người có lợi ích liên quan trong vụ việc tranh chấp hoặc thân quen với một bên tranh chấp. Thông thường, những người có lợi ích liên quan đến vụ việc hoặc thân quen luôn bảo vệ việc có liên quan đã làm, nên chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho bên tranh chấp mà họ có liên quan. Vì vậy, hòa giải viên cần khéo léo đề nghị những người có liên quan cung cấp những thông tin, tài liệu chính xác, trung thực. Việc xem xét, xác minh nên lập thành biên bản để làm căn cứ giải thích, thuyết phục các bên tự nguyện hòa giải.

(7) Kỹ năng giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp (Kỹ năng giao tiếp của hòa giải viên)

Giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện thỏa thuận, giải quyết tranh chấp là nghệ thuật hòa giải, đòi hỏi hòa giải viên không chỉ có kiến thức pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tranh chấp, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ hòa giải, có uy tín, phẩm chất đạo đức, có tâm và kinh nghiệm cuộc sống mà còn có khả năng vận dụng pháp luật và đạo đức xã hội để giải thích, thuyết phục các bên đi đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp.

- Tỏ ra thông cảm và tôn trọng đối tượng: khi phân tích, giải thích cho các bên biết hành vi của họ là đúng hay sai, hòa giải viên cần phải xây dựng không khí gần gũi và tin tưởng, cảm thông và tôn trọng đối tượng, có thái độ ân cần, chia sẻ, nhiệt tình, cần phải làm cho không khí nói chuyện được vui vẻ, chan hòa. Như vậy, đối tượng sẽ lắng nghe ý kiến thuyết phục của hòa giải viên. Khi thuyết phục đối tượng mà nói được những suy nghĩ băn khoăn của họ thì dễ đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, mọi lý lẽ, thuyết phục của hòa giải viên phải xuất phát từ lập trường của các bên tranh chấp mà suy nghĩ và đặt vấn đề, đưa ra giải pháp tôi ưu cho các bên tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình.

- Khơi gợi cho các bên tranh chấp những tình cảm tốt đẹp vốn có giữa họ như tình cảm gia đình, tình cảm xóm giêng, bạn bè để họ dễ thông cảm cho nhau.

- Đưa ra những chứng cứ, ví dụ cụ thể để minh chứng cho việc phân tích, lập luận của hòa giải viên.

Kiên trì, thuyết phục, không nên nôn nóng: hòa giải viên cần suy nghĩ chín chắn, điều gì nên nói, điều gì không nên nói, ngoài ra còn phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết từng bước, nhất là đối vời những người có thái độ bảo thủ hoặc bất hợp tác.

Mục tiêu đặt ra đối với kỹ năng hòa giải là những lời khuyên thuyết phục và hướng dẫn của hòa giải viên phải được các bên chấp nhận, đồng thuận nghe theo và làm theo bằng việc các bên tự định đoạt giải quyết dứt điểm tranh chấp, lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên một cách tốt nhất.

Làm rõ những mặt lợi và bất lợi nếu để vụ việc mâu thuẩn tiến xa hơn.

Tình huống: Có cặp vợ chồng đã đông đủ cháu nội cháu ngoại nhưng chồng hay say xỉn nên chồng đánh vợ như cơm bữa. Hòa giải viên phải đến tận nhà để nói chuyện với ông chồng, lúc đến thì bát đũa, nồi niêu đang vứt loẻng xoẻng ngoài sân vì ông ta vừa say rượu và đánh vợ xong. Biết tình thế không thể ngồi nói chuyện phân bua khúc mắc giữa hai vợ chồng này, hòa giải viên đã đưa pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ra để phân tích mức độ vi phạm nặng nhẹ. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ phân tích gãy gọn, ông chồng đã nhận lỗi và hứa sẽ không đánh vợ nữa.

Kết luận: Những kỹ năng trên đây cần phải rèn luyện và đòi hỏi hòa giải viên phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức bằng nhiều hình thức.

          B. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ

I. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1. Khái niệm, những trường hợp thừa kế theo pháp luật, người thừa kế theo pháp luật

- Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: Không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

(Trong quá trình xây dựng dự thảo, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm vào hàng thừa kế này đối tượng là con dâu, con rể vì đây là những người có đóng góp trực tiếp vào cuộc sống của gia đình, đặc biệt là con dâu. Tuy nhiên, do còn những bất cập (chủ yếu các vấn đề nảy sinh gây chia rẻ trong gia đình) nên luật không đưa vào).

+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

- Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

2. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt

- Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định.

- Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về thừa kế thế vị, thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

- Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác: Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Ông A và bà B là vợ chồng. ông bà có 2 người con: Con trai là C và con gái là D. Anh C kết hôn với chị Đ và sống cùng ông bà AB trên mảnh đất của ông bà rộng 360m2. Chị C đi làm ăn xa và lấy chồng ở tỉnh khác. Năm 1973 ông A mất. Bà B ủy quyền cho con trai là ông C đứng tên trên sổ địa chính để sử dụng mảnh đất này từ năm 1983 và cũng đồng ý cho ông C, chị D (con gái ông bà) không có ý kiến gì. Vợ chồng ông CĐ xây dựng nhà cửa gồm một ngôi nhà hai tầng để ở. Thời gian gần đây, ông C tiến hành làm sổ đỏ mang tên ông. Trong quá trình làm thì bà D ở xa về không đồng ý và đòi chia đất.

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Do không nêu rõ mảnh đất này có trước khi kết hôn hay sau khi kết hôn, nên có 02 trường hợp: Mảnh đất này thuộc tài sản riêng của ông A hoặc mảnh đất thuộc tài sản chung của vợ chồng ông A bà B.

Trường hợp 1:

Nếu mảnh đất được xác định là tài sản riêng của ông A thì toàn bộ diện tích đất được xác định là khối di sản thừa kế của ông A để lại. Do ông A không để lại di chúc nên khối di sản trên được chia theo pháp luật, tức là chia theo hàng thừa kế. Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hàng thừa kế như sau (quy định về hàng thừa kế trong BLDS 2005 giống BLDS 2015):

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Theo quy định trên, bà B, ông C, bà D thuộc hàng thừa kế thứ nhất, do vậy sẽ được hưởng khối di sản bằng nhau, nghĩa là mỗi người được hưởng: 360m2/3 = 120m2.

Ông C được nhận: 120m2 (diện tích đất ông được thừa kế từ cha) + 120m2 (đất bà B nhận thừa kế từ ông A và tặng cho ông C) = 240m2.

Trường hợp thứ 2:

Nếu mảnh đất là tài sản chung của ông A bà B thì di sản ông A để lại chỉ là ½ mảnh đất, ½ còn lại thuộc quyền sử dụng của bà B. Theo đó, nếu chia theo pháp luật, phần di sản mà mỗi người được hưởng từ ông A là: (360/2)/3 = 60m2.

Trong trường hợp này, diện tích đất ông C có quyền sử dụng là 60m2 (thừa kế từ cha) + 60m2 (bà B thừa kế của ông A và tặng cho ông C) + 180m2 (1/2 mảnh đất thuộc quyền sử dụng của bà B trong khối tài sản chung và cho ông C) = 300m2.

Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng ông A mất năm 1973, theo BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó). 

II. THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1. Khái niệm di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

2. Người lập di chúc

Người thành niên có đủ điều kiện: Minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép, có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Người lập di chúc có quyền sau đây:

+ Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

+ Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

+ Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

3. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

a) Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp lập di chúc bằng đánh máy (trước đây chỉ có có viết tay), cụ thể: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

 Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. So với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 đã quy định toàn diện, đầy đủ hơn về trường hợp “người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

- Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực: Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc. Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

+ Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

+ Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực, cụ thể: Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp “di chúc của người đang bị tạm giữ”.

b) Di chúc miệng

Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

4. Di chúc hợp pháp

Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện nêu trên.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

5. Nội dung của di chúc

Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

6. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc; gửi giữ di chúc; di chúc bị thất lạc, hư hại

Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về công chứng. Người giữ bản di chúc có nghĩa vụ: Giữ bí mật nội dung di chúc; giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc; giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp: Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

7. Hiệu lực của di chúc

Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.

8. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.

 Quy định nêu trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định.

9. Di sản dùng vào việc thờ cúng

Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

10. Di tặng

Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm điều kiện “người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế’.

Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

11. Công bố di chúc và giải thích nội dung di chúc

Trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc. Trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.

Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.

Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực. So với Bộ luật năm 2005, Bộ luật năm 2015 sửa đổi quy định về việc giải quyết khi không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong khi Bộ luật năm 2005 quy định: “Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật”.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THỪA KẾ

Ví dụ: Hai cha con ông A và ông B chở nhau đi trên đường thì bị tai nạn giao thông qua đời cùng một lúc. Việc thừa kế của cha và con được hiểu như thế nào? Người con có được thừa kế của người cha không và ngược lại?.

Nếu ông B (người con) có 01 con trai nhỏ. Cháu trai này có được thừa kế tài sản từ người ông không?

1. Người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm; từ chối nhận di sản; người không được quyền hưởng di sản; tài sản không có người nhận thừa kế

a) Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm

Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định.

Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

b) Từ chối nhận di sản

Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

 Bộ luật năm 2015 nêu rõ: Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến (trước đây chỉ yêu cầu thông báo) người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

c) Người không được quyền hưởng di sản

Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Những người trên đây vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

d) Tài sản không có người nhận thừa kế

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.

2. Quyền thừa kế; thời điểm, địa điểm mở thừa kế và di sản

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bổ sung quy định mới: Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

 Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định theo quy định.

Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

3. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

4. Người quản lý di sản

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định nêu trên thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Người quản lý di sản (không phải là cơ quan nhà nước) có nghĩa vụ sau đây:

+ Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

+ Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có nghĩa vụ sau đây:

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

+ Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Bên cạnh các nghĩa vu, người quản lý di sản có các quyền sau đây:

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra; cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý  có quyền sau đây:

+ Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có quyền sau đây:

+ Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

5. Thời hiệu thừa kế

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Quy định gặp vướng mắc khi thực hiện trên thực tế vì thời hiệu khởi kiện 10 năm là quá ngắn để thực hiện quyền khởi kiện. Do đó, quyền lợi của người thừa kế tài sản không được pháp luật bảo vệ. Để được hưởng di sản thừa kế, không ít đương sự đã có những hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội. Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định cụ thể phương án xử lý những di sản thừa kế khi hết thời hiệu 10 năm nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý cũng như số phận thực tế của những di sản này.

Từ bất cập trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra quy định mới về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Cụ thể: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.

+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định trên đây.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

IV. THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

1. Họp mặt những người thừa kế

Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây: Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; cách thức phân chia di sản. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

2. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Bộ Luật năm 2015 sửa đổi về thứ tự ưu tiên thanh toán đối với trường hợp “Chi phí cho việc bảo quản di sản”. Nội dung này được Bộ luật năm 2005 xếp vị trí thứ 9, Bộ luật năm 2015 xếp vị trí thứ 3; sửa đổi, bổ sung chi phí “Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước” thành “Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước”.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

(1) Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

(2) Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

(3) Chi phí cho việc bảo quản di sản.

(4) Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

(5) Tiền công lao động.

(6) Tiền bồi thường thiệt hại.

(7) Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

(8) Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

(9) Tiền phạt.

(10) Các chi phí khác.

3. Phân chia di sản

a) Phân chia di sản theo di chúc

Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

b) Phân chia di sản theo pháp luật

Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

c) Hạn chế phân chia di sản

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp được gia hạn và không hạn chế đối với trường hợp đã kết hôn, cụ thể: Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm (Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế).

d) Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

 

 

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Ngày cập nhật 11/09/2020

MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

 

Ở một nước mà quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” được coi trọng như ở nước ta thì hoạt động hòa giải ở cơ sở sẽ luôn là sợi dây vô hình, bền chặt, góp phần kết nối và giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc. 

I. Bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở

Hoạt động hòa giải cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định chủ trương, phát huy tinh thần dân chủ mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Nhà nước, coi trọng sự đồng thuận của nhân dân, tăng cường đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra các cơ quan Nhà nước giải quyết. Để hoạt động hòa giải trở về đúng tính chất là hoạt động tự quản của nhân dân, do nhân dân tự quyết định trong đó vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở là yếu tố quan trọng, góp phần dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,

Như vậy, không hành chính hóa hoạt động hòa giải ở cơ sở. Hoạt động này phát huy được tính tự quản của cộng đồng dân cư nhưng đồng thời hạn chế được sự tham gia của Nhà nước đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở, đồng thời nâng cao vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với công tác này. Bản chất của hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện của người dân, do người dân tự thực hiện, Nhà nước chỉ hỗ trợ để người dân phát huy ý thức, trách nhiệm của mình trong giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trên địa bàn ngay từ khi mới phát sinh.

II. Các văn bản pháp luật

+ Luật Hòa giải ở cơ sở số 35/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

+ Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 4 năm 2014.

+ Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ngày 30 tháng 7 năm 2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết số 14/2015/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh và Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14 tháng 01 năm 2016 quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

III. Phân biệt hòa giải ở cơ sở với hòa giải khác

Hòa giải ở cơ sở khác với việc hòa giải trong tố tụng và hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai.

1. Theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở, Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định.

Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố).

Các bên là cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật mà theo quy định được hòa giải ở cơ sở.

2. Hòa giải trong tố tụng dân sự được áp dụng đối với các trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình. Trong tố tụng, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc. Hiệu lực của các thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với các bên liên quan. Không được hòa giải trong một số trường hợp: Yêu cầu bồi thường gây thiệt hại tài sản của Nhà nước; những vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự trái pháp luật; bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Thành phần hòa giải là Thẩm phán, Thư ký, đương sự. Việc hòa giải phải được lập biên bản hòa giải thành. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, các bên không thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Thỏa thuận có hiệu lực ngay. Thỏa thuận có thể bị kháng nghị theo tủ tục Giám đốc thẩm nếu có căn cứ thỏa thuận bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật.

(Giám đốc thẩm là xét lại quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng (về tố tụng, về áp dụng pháp luật, không phù hợp tình tiết khách quan của vụ án).

3. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một khâu bắt buộc trước khi tiếp tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2014, quy định hòa giải tranh chấp đất đai tại Điều 202 và 203:

Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

(1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

(2) Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây: Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền:

 Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

4. Quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án

Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, tại Chương XXXIII của Bộ luật này quy định “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”. Theo đó, Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự, tức là sau khi có quyết định công nhận của Tòa án, các bên phải tự nguyện thi hành thỏa thuận của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành của Tòa án; hết thời gian này, bên phải thực hiện nghĩa vụ có điều kiện thực hiện nghĩa vụ mà không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện, bên có quyền được nộp đơn yêu cầu thi hành cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Để hướng dẫn cho các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở (nâng cao hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành ở cơ sở), ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Công văn số 3774/UBND-TP ngày 07/6/2017 để triển khai thực hiện.

Theo đó, để được Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;

- Vụ, việc được hòa giải tuân thủ đúng quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở;

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;

- Có văn bản hòa giải thành. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba;

- Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.

Thời hạn gửi đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là 06 tháng, kể từ ngày lập văn bản hòa giải thành. Cơ quan tiếp nhận đơn yêu cầu là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, làm việc.

- Hiệu lực của Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án:

+ Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

+ Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

+ Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở.

Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

Việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc không gửi đơn yêu cầu.

IV. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Thủ bầu hòa giải viên, có thể nói khá “rườm rà”, phức tạp, cụ thể có 03 bước:

- Bước 1: Chuẩn bị bầu hòa giải viên (Trong thời hạn 20 ngày, trước ngày dự kiến bầu hòa giải viên): Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận dự kiến những người được bầu làm hòa giải viên; thống nhất thời gian bầu hòa giải viên; quyết định hình thức bầu hòa giải viên; quyết định danh sách Tổ bầu hòa giải viên; thông báo công khai danh sách bầu hòa giải viên.

- Bước 2: Tổ chức bầu hòa giải viên: Bầu hòa giải viên bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp được tiến hành khi có trên 50% đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố trở lên tham dự; hoặc bầu hòa giải viên bằng hình thức phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn, Tổ dân phố.

- Bước 3: Kết quả bầu hòa giải viên: Trưởng ban công tác Mặt trận lập hồ sơ về kết quả bầu hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để xem xét, quyết định.

 

Trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

a) Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. Nguyên tắc thể hiện qua việc hòa giải chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của các bên; tôn trọng sự thỏa thuận; trong quá trình thực hiện thỏa thuận cũng không được áp đặt, cưỡng chế.

b) Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi.

c) Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp cần phải thông báo để có biện pháp phòng ngừa khi mâu thuẩn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng; để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự.

Phân tích về bí mật thông tin đời tư:

Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình:

1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Phạm vi và nội hàm đặc trưng của đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình không được quy định rõ ràng dẫn tới có nhiều vướng mắc trên thực tiễn.

Ví dụ như vướng mắc trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học sinh có phải bí mật cá nhân, đời sống riêng tư’’ hay không. Vấn đề này thời gian vừa qua được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường trung học phổ thông và cơ quan báo chí rất quan tâm khi công bố công khai điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông của thí sinh. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em, tại Điều 33 quy định “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em”. Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên 16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không. Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí sinh trên 16 tuổi.

- Việc xác định các hành vi nào là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc không xâm phạm còn chưa có những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể mà chủ yếu nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Qua rà soát, nghiên cứu những biểu hiện sau đây là hành vi xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư : (1) Hành vi thu thập, công bố các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân không được sự đồng ý của người đó hoặc của nhân thân cá nhân trong trường hợp cá nhân chết, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật ; (2) Hành vi xâm phạm bất hợp pháp chỗ ở của cá nhân ; (3) Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân. Tuy nhiên ở nước ta và ngay cả một số quốc gia tiến bộ, việc xác định hành vi xâm phạm không hề dễ dàng và thường gây nên sự tranh cãi của công chúng và khi xét xử vụ việc cụ thể nào đó thường do thẩm phán quyết định dựa trên kinh nghiệm và tương tự pháp luật. Thời gian vừa qua có một số vụ việc còn có nhiều quan điểm tranh luận xoay quanh như:

Các thông tin liên quan đến tổng tài sản của cá nhân và hành vi công khai thông tin có bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không còn có tranh cãi. Báo Đại Đoàn Kết có đưa tin về ‘‘Những người giàu nhất Việt Nam’’. Có quan điểm cho rằng pháp luật không buộc cá nhân phải công khai tài sản của mình trừ khi được sự đồng ý của họ, ngoại trừ một số trường hợp cá nhân phải công khai tài sản theo quy định của pháp luật hoặc buộc chứng minh nguồn gốc tài chính; quan điểm khác cho rằng tổng tài sản của những người giàu nhất Việt Nam đã được thể hiện công khai thông qua những thông tin dữ liệu được công khai ví dụ như tổng số cổ phiếu niêm yết tại sàn chứng khoán, hay tổng số bất động sản góp vốn vào công ty… do đó tổng tài sản của những người này được phép công khai mà không cần xin phép họ.

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đặc biệt là hình ảnh liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng được đưa ra tranh luận bởi lẽ sự phân định giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền tự do báo chí còn chưa có quy định rõ ràng. Hoặc thậm chí việc đăng tải hình ảnh của cá nhân phạm tội lên trên báo chí hoặc mạng xã hội cũng là một vấn đề còn tranh cãi.

Ngày 20/7/2017, Bộ Tư pháp tổ chức họp báo định kỳ để thông tin về công tác tư pháp quý II/2017. Người phát ngôn Bộ Tư pháp, Chánh Văn phòng Bộ Đỗ Đức Hiển chủ trì buổi họp báo cùng sự tham dự của đại diện lãnh đạo nhiều đơn vị liên quan thuộc Bộ để trả lời hàng loạt vấn đề mà dư luận quan tâm trong thời gian qua. Về vấn đề liên quan giữa bảo vệ bí mật đời tư với công khai điểm thi của thí sinh thi tốt nghiệp THPT quốc gia, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế Nguyễn Hồng Hải quan niệm, Bộ luật Dân sự năm 2015 tuy có quy định nguyên tắc về bảo vệ bí mật đời sống riêng tư nhưng thế nào là đời sống riêng tư thì Bộ luật không quy định mà việc quy định cụ thể sẽ do các luật chuyên ngành hướng dẫn. Đối với công bố điểm thi, theo Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định hướng dẫn Luật, với học sinh dưới 16 tuổi thì thông tin về kết quả học tập là thông tin đời sống riêng tư và thông tin này được bảo vệ theo nguyên tắc thông tin cá nhân. Học sinh từ 16 tuổi trở lên thì hiện không có quy định cụ thể nào nói đây là thông tin đời sống riêng tư cần bảo vệ. Việc công khai điểm thi của học sinh từ 16 – 18 tuổi có bị cấm hay không thì phải có điều luật quy định cụ thể. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm quốc tế, ông Hải nhận thấy các nước thường xây dựng 1 trang web điện tử trực tuyến, những cá nhân cần biết điểm sẽ tra bằng số báo danh, số ID của mình. “Để hạn chế những rủi ro không cần thiết đối với lợi ích nhân thân, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kịp thời nghiên cứu hoàn thiện vấn đề này”.

Ở nước ngoài, nhiều nước chưa có khái niệm rõ ràng về vấn đề này và nhiều nước khi xét xử áp dụng án lệ. Vụ việc diễn ra tại thành phố Dortmund Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến việc xác định hành vi có xâm phạm đời sống riêng tư của cá nhân như sau: ông Robert xây một khu xông hơi sau vườn, mỗi lần tới đây, ông quyết định không mặc quần áo mà khỏa thân đi vào phòng xông hơi. Hàng xóm nhiều lần chứng kiến hành động này và họ cảm thấy không hài lòng và họ quyết định khởi kiện lên Tòa án thành phố Dortmund vì “không thể chịu nổi hình ảnh khỏa thân” của Robert. Thẩm phán nói rằng mỗi tuần ông Robert sử dụng phòng xông hơi 2 lần và việc khỏa thân theo tần suất này là “chấp nhận được”. Thẩm phán nói rằng không hề thấy dấu hiệu vi phạm hình sự trong trường hợp này và ông Robert hoàn toàn có quyền được khỏa thân đi lại tự do trong vườn nhà mình. Tuy nhiên hàng xóm nói Robert thường xuyên say xỉn, không chịu xây toilet và thường đi vệ sinh vào những bụi việt quất ông trồng. Thẩm phán đáp lời rằng luật pháp không cấm việc một người đi vệ sinh trong vườn nhà của ông ta. Vụ việc kết thúc và luật sư của ông Hans nói rằng “đây là một trải nghiệm đau buồn”.
        Vụ việc tại thành phố Ottawa vào tháng 10/2017, một viên chức thành phố có tên Dunn bị Thành phố Ottawa yêu cầu tiết lộ tất cả các email được gửi hoặc nhận bởi Rick O'Connor - một Luật Sư Thành Phố, bởi lẽ email này do Thành phố cấp cho Dunn để làm việc, và có dấu hiệu nghi ngờ Dunn đã tiết lộ một số thông tin bí mật của Thành phố. Qua nhiều lần tranh luận tại Tòa, thẩm phán đã phán quyết rằng khó phân biệt giữa "thông tin cá nhân và tài liệu của nhân viên được lưu trữ dưới hình thức giấy trong tủ hồ sơ của chính phủ và bàn làm việc và các hồ sơ lưu trữ dưới dạng điện tử trong hệ thống máy tính do chính phủ sở hữu và nội dung liên lạc qua email giữa O'Connor và Dunn không liên quan gì đến các vấn đề kinh doanh của thành phố. Do đó, việc tiết lộ nội dung trong email của Dunn sẽ vi phạm quyền riêng tư của O'Connor và Dunn".

Bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín…

Tình huống:

Thời gian gần đây, chị B nhận thấy những biểu hiện khác thường ở anh A – chồng chị B. Ở nhà, anh thường lạnh nhạt, ít nói, hay cáu gắt với vợ con hơn trước. Chi B sinh nghi chồng mình có người phụ nữ khác, hai vợ chồng thường xuyên to tiếng với nhau. Chi B ôm con về nhà mẹ đẻ.

Giả sử có 02 trường hợp:

TH1: Sau khi gặp gỡ với anh A, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A. Do trong một lần tụ tập bạn bè, không làm chủ được hành vi của mình, anh đã có quan hệ với một tiếp viên, sau đó biết được cô gái này bị HIV. Từ đó, vừa lo lắng, vừa ân hận, không biết mình đã bị lây nhiễm chưa, và vợ mình có bị không. Trường hợp này hòa giải viên phải khuyên giải anh A đi xét nghiệm và không được tiết lộ về thông tin này vì nó ảnh hưởng nghiêm trọng tói cuộc sống của anh A và những người xung quanh.

TH2: Sau khi tìm hiểu, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A là do có người phụ nữ khác, thường xuyên qua lại với người này. Trường hợp này anh A vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

d) Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

đ) Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Quy định về bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở là nội dung mới so với quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở trước đây, phù hợp với yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ và pháp luật về bình đẳng giới. Bình đẳng giới thể hiện trong tổ chức và trong hoạt động. Trong tổ chức, phải có hòa giải viên nữ tham gia tổ hòa giải; trong hoạt động hòa giải các vụ việc, phải xét đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em.

e) Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.

V. Kinh phí và chế độ của Tổ hòa giải, hòa giải viên

1. Nguồn kinh phí hỗ trợ

Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở; chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc và hỗ trợ các chi phí cần thiết khác cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.

2. Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên

Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên bao gồm:

- Chi hỗ trợ cho hòa giải viên bao gồm: Chi hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc; chi hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải;

- Chi hỗ trợ tổ hòa giải để mua tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ hoạt động của tổ hòa giải; tổ chức các cuộc họp, sơ kết, tổng kết hoạt động của tổ hòa giải;

3. Mức chi hỗ trợ

Hiện nay, Thông tư hướng dẫn về nội dung chi và mức chi trong công tác hòa giải đang được Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính phối hợp ban hành. Do đó, văn bản áp dụng ở địa phương hiện nay vẫn là Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 về việc quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.

Một số mức chi cụ thể như sau:

- Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải):

+ Hòa giải thành: 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải;

+ Hòa giải không thành: 150.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải.

- Hỗ trợ chi phí mai táng cho người tổ chức mai táng hòa giải viên gặp tai nạn hoặc rủi ro bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở: Mức chi bằng 05 tháng lương cơ sở.

- Chi hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải (chi mua văn phòng phẩm, sao chụp tài liệu, nước uống phục vụ các cuộc họp của tổ hòa giải): 100.000 đồng/tổ hòa giải/tháng.

- Chi bồi dưỡng thành viên Ban tổ chức bầu hòa giải viên tham gia họp chuẩn bị cho việc bầu hòa giải viên: 50.000 đồng/người/buổi.

- Chi tiền nước uống cho người tham dự cuộc họp bầu hòa giải viên: 10.000 đồng/người/buổi.

4. Điều kiện hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ, việc của hòa giải viên

- Vụ, việc được tiến hành hòa giải và đã kết thúc theo quy định.

- Hòa giải viên không vi phạm nghĩa vụ của hòa giải viên.

Như vậy, cần lưu ý rằng, một vụ việc dù được hòa giải thành hay không nhưng đáp ứng các điều kiện trên thì được hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ việc.

5. Phương thức và thủ tục hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên

- Việc hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên được thực hiện sau khi vụ, việc hòa giải kết thúc.

- Hồ sơ thanh toán hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên:

Nhìn chung, hồ sơ thanh toán là những chứng từ (giấy tờ, hóa đơn) liên quan chứng minh công việc đã thực hiện theo yêu cầu, bao gồm:

+ Tổ trưởng tổ hòa giải lập hồ sơ đề nghị thanh toán thù lao cho hòa giải viên, bao gồm: Giấy đề nghị thanh toán thù lao của hòa giải viên có ghi rõ họ, tên, địa chỉ của hòa giải viên; tên, địa chỉ tổ hòa giải; số tiền đề nghị thanh toán; nội dung thanh toán (có danh sách các vụ, việc trong trường hợp đề nghị thanh toán thù lao cho nhiều vụ, việc); chữ ký của hòa giải viên; chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải và xuất trình Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để đối chiếu khi cần thiết.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định và trả thù lao cho hòa giải viên thông qua tổ hòa giải; trường hợp quyết định không thanh toán cho hòa giải viên thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Tổ hòa giải trả thù lao cho hòa giải viên theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được thù lao.

6. Các trường hợp hòa giải viên được hưởng hỗ trợ, tạo điều kiện khắc phục hậu quả khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Trường hợp được hỗ trợ

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trong khi đang thực hiện hòa giải.

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trên đường đi và về từ nơi ở đến địa điểm thực hiện hòa giải trên tuyến đường và trong khoảng thời gian hợp lý.

- Các khoản được hỗ trợ

Hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ như sau:

+ Chi phí cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; nếu thu nhập thực tế của hòa giải viên không ổn định hoặc không thể xác định được thì áp dụng cách tính theo thu nhập bình quân hàng ngày của người làm công ăn lương chia theo khu vực thành thị, nông thôn, loại hình kinh tế ngoài nhà nước trong thời gian cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút.

Gia đình của hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ một lần bằng tiền để chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc hòa giải viên trước khi chết; người tổ chức mai táng được hỗ trợ chi phí cho việc mai táng.

7. Thủ tục thực hiện hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Hồ sơ

+ Giấy đề nghị hỗ trợ của hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng có xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc Trưởng ban công tác Mặt trận trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại là tổ trưởng tổ hòa giải. Giấy đề nghị hỗ trợ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người yêu cầu hỗ trợ; lý do yêu cầu hỗ trợ;

+ Biên bản xác nhận tình trạng của hòa giải viên bị tai nạn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra tai nạn hoặc cơ quan công an nơi xảy ra tai nạn (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Giấy ra viện, hóa đơn thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Văn bản, giấy tờ hợp lệ về thu nhập thực tế theo tiền lương, tiền công hằng tháng của người bị tai nạn có xác nhận của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp), bao gồm: Hợp đồng lao động, quyết định nâng lương của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động hoặc bản kê có thu nhập thực tế của hòa giải viên bị tai nạn và các giấy tờ chứng minh thu nhập thực tế hợp pháp khác (nếu có);

+ Giấy chứng tử trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp).

- Hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ  đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã ra quyết định công nhận hòa giải viên.

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện kèm theo hồ sơ đề nghị hỗ trợ.

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, ra quyết định hỗ trợ; trường hợp không hỗ trợ thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Chậm nhất sau 03 ngày làm việc, kể từ ngày ngày nhận được quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc chi tiền hỗ trợ.

VI. Một số kỹ năng hòa giải ở cơ sở

1. Kỹ năng hòa giải là một yếu tố quan trọng trong công tác hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng. Kỹ năng hòa giải tốt sẽ giúp phát huy tốt hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở; ngược lại, có thể làm cho sự việc không chỉ hòa giải không thành mà còn có thể gây nên những hậu quả khó lường.

Câu chuyện thực tế:

Một vụ việc khiến hòa giải viên buồn và “sốc”, đó là chuyện chồng rượu chè thường xuyên đánh đập vợ, dẫn đến, người vợ "tức nước vỡ bờ", không làm chủ được hành vi đã “xuống tay” giết chồng.

Chị Minh là người phụ nữ rất đảm đang, tháo vát. Chị lấy anh Hòa, sinh được được một bé gái thì chị Minh không thể chịu đựng nổi tính tình côn đồ, thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ của ông Hòa. Chị bỏ chồng, đi xã làm ăn. Đứa con chung của hai người ở cùng bố không lâu thì mất.

Ông Hòa đi lấy vợ hai thì sinh thêm được một con gái. Nhưng với bản tính của ông Hòa, dường như khó có người phụ nữ nào chung sống được lâu dài. Thế nên chỉ sau một thời gian ngắn gắn bó, ông Hòa và vợ hai chia tay. Ông Hòa đón chị Minh về “nối lại tình xưa”. Vì vẫn còn tình cảm với ông Hòa nên chị Minh về sống cùng, sau đó sinh được thêm 2 người con.

Là người giỏi thu vén nên kinh tế trong gia đình đa phần do một tay chị Minh tạo dựng. Ông Hòa vốn bê tha rượu chè nên không chỉ không giúp đỡ kinh tế cho vợ mà còn thường xuyên bị “ma men” điều khiển, đánh đập vợ con.

Chị Minh cứ sắm sửa được cái gì, ông lên cơn say là đập nát hết. Những lần mới cãi vã, người trong thôn trong xóm còn tới can thiệp, khuyên giải, Tổ hòa giải cũng vào cuộc nhiều lần nhưng hòa thuận được mấy hôm rồi  vẫn “đâu lại vào đấy” nên không ai còn  thiết tha với chuyện cãi nhau như cơm bữa của gia đình ông Hòa bà Minh nữa.

Chị Thơm là Hòa giải viên vẫn ghé qua để trò chuyện với bà Minh và ông Hòa. Chị đã khuyên giải và mong muốn hai vợ chồng ông Hòa và bà Minh cố gắng làm ăn. Nhất là ông Hòa không còn rượu chè nữa, hãy tu chí làm ăn giúp đỡ bà Minh. Nghe chị Thơm nói, cả hai ông bà đều gật đầu quyết chí. Nhưng lại được mấy hôm chị Thơm lại phải chứng kiến cảnh vợ chồng ông bà cãi vã, xô xát nhau.

Khi “con giun xéo lắm cũng quằn”, trong một lần bị chồng đánh đập, chửi bới rồi đem hết quần áo của mình ra sân đốt, bà Minh đã cầm kéo đâm chồng khiến nạn nhân tử vong.

Hoặc có trường hợp chị ham làm công tác xã hội thường xuyên đi làm về muộn, ít có thời gian chăm sóc gia đình và các con. Anh chồng khó chịu, thường mắng chửi vợ. Chị vợ lại nóng tính, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau ảnh hưởng đến an ninh, trật tự thôn xóm.

Thực tế có rất nhiều các trường hợp phải nhờ đến hòa giải viên, hôn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, các tranh chấp nhỏ... Và thực tế công tác hòa giải ở cơ sở cũng hết sức vất vả. Đây được ví như công việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nhưng có những trường hợp khi hòa giải thì hòa giải viên bị những người trong cuộc chửi bới, dọa đánh, đe dọa... Chế độ thì rất ít, có khi còn không có, nhưng trách nhiệm lại nặng nề và đòi hỏi hòa giải viên phải có các kỹ năng nhất định. 

2. Khái niệm kỹ năng hòa giải

Kỹ năng hòa giải là khả năng của hòa giải viên vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội, bằng sự nêu gương của mình và kinh nghiệm cuộc sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp, mâu thuẩn, nhằm xóa bỏ bất đồng và đạt được thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật ở cơ sở.

3. Một số kỹ năng hoà giải ở cơ sở cần lưu ý

(1) Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội.

Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội là một kỹ năng rất quan trọng, không thể thiếu trong công tác hòa giải ở cơ sở. Bất kỳ một vụ việc hòa giải nào cũng cần viện đến kiến thức pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội.

Từ thực tiễn hòa giải cho thấy, các vụ việc mâu thuẩn xảy ra phổ biến nhất là trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Xã hội càng hiện đại thì dường như chuyện tan vỡ gia đình ngày càng phổ biến hơn. Trước ở làng ở quê hiếm lắm mới thấy có đôi trục trặc dẫn tới bỏ nhau song hiện giờ số vụ đã nhiều hơn. Mỗi năm, có nhiều các vụ hòa giải từ to đến nhỏ: ghen tuông, cãi vã cho tới việc quyết định ly hôn.

Cái khó của những hòa giải viên cơ sở chính là người dân ở nhiều thôn quê, làng xã trình độ dân trí còn thấp, vẫn "trọng nam khinh nữ", người đàn ông quen sống gia trưởng, người phụ nữ luôn luôn chịu nhịn nhục, để người chồng hành hung. Hoặc là người phụ nữ vì quá uất ức, quẫn trí nên đã có những hành động thiếu suy nghĩ....

Để hòa giải các cặp đôi "sứt mẻ" thành công, hòa giải viên phải bàn họp, nghĩ nhiều cách khác nhau.

Các hòa giải viên mong muốn giúp những cặp vợ chồng trong thôn quê của mình hiểu rõ về pháp luật, nhất là pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. Họ chịu nghe lời của các hòa giải viên để sống tốt hơn, đầm ấm hơn. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết hòa giải viên cần báo cáo cư quan chức năng can thiệp sớm vào các vụ việc để không có những hậu quả đau lòng xảy ra.

Ví dụ về hậu quả nếu không can thiệp kịp thời

Ví dụ 1: Qua mai mối, Khánh quen biết vợ tên là Lan Anh, là một cô gái hiền lành, ít nói, đang làm công nhân may. Sau khi lấy nhau, vợ chồng Khánh đã được gia đình nhà vợ cho mượn một ngôi nhà để ở với đầy đủ tiện nghi. Sau đó, Khánh có bồ và vì vậy mà những cuộc cãi vã, xô xát xảy ra thường xuyên. Thậm chí có lúc bồ của Khánh còn nhắn tin vào máy điện thoại di động xui Khánh bỏ vợ và không được có con với vợ. Trong một lần tình cờ, Lan Anh đọc được cái tin nhắn này trong điện thoại của Khánh nên 02 vợ chồng cãi nhau, dẫn đến xô xát và Khánh đã đánh chết vợ.

Ví dụ 2: Hai vợ chồng anh Tuyên làm xe ôm, còn chị Huệ thì buôn bán vặt vãnh, nuôi 02 đứa con. Tiền kiếm được không đáng là bao mà Tuyên thì lại ham mê lô đề. Chị Huệ khuyên bảo mãi không được và cũng vì chuyện đó mà hai vợ chồng cãi vã. Bực tức, Tuyên đã xuống tay giết vợ rồi nói dối hai con là mẹ đã bỏ ba bố con để đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc. Sự thật chỉ được phát hiện cho tới khi những phần máu thịt đớn đau của người mẹ xấu số đó sau nhiều ngày bị dìm xuống hồ sâu đã nổi lên mặt nước và được quần chúng nhân dân phát hiện.

Ví dụ 3: Nếu như đấm, đá, đập... được coi là lối bạo hành truyền thống thì nay, trong thời đại của công nghệ, nhiều kiểu bạo hành quái đản đã nảy sinh. Khi kết hôn với nhau, cả ông D. và chị P. đều đã trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc và mỗi người đều đã có một con riêng. Tưởng sau những bất hạnh, cuộc hôn nhân lần này sẽ mang đến hạnh phúc. Nhưng không, chỉ sau một thời gian không dài thì cuộc sống chung bắt đầu cơm không lành, canh không ngọt.

Không giống như nhiều người phụ nữ khác, chị không phải hứng chịu những trận đòn thừa sống thiếu chết của chồng. Không phải chịu nỗi đau về thể xác nhưng người đàn ông này đã ra những đòn bạo hành về tinh thần rất quái đản để hành hạ chị. Đầu tiên là ông ta thay toàn bộ khóa cửa nhà để mẹ con chị mất chỗ cư trú. Sau đó, ông ta bắt đầu tự chế tạo ra hàng loạt những tờ rơi có tiêu đề là "Thư mời" với nội dung: Chị P. là gái gọi, kèm theo địa chỉ, số điện thoại "để khách làng chơi tiện liên hệ". Cùng với các "thư mời", ông D. còn chế tạo ra các tờ "cáo phó" với nội dung thông báo là chị P. đã chết và các "thư gửi" đề tên người nhận là mẹ đẻ của chị P. với nội dung lăng mạ bà. Tất cả các "thư mời", "thư gửi", "cáo phó" này, ngoài việc dán ở gia đình cha mẹ đẻ chị P., ông ta còn đem rải ở nhiều địa điểm nơi chị P. từng sinh sống và gửi đến trường học nơi con gái chị P. đang theo học.

Ngón đòn hành hạ quái đản của người chồng đã khiến hai mẹ con chị P. suy sụp, phải bỏ nhà ra đi đến ở tại ngôi nhà tạm lánh của Hội phụ nữ. Dù không bị đánh đập tàn nhẫn nhưng các chuyên gia tư vấn cho rằng, đòn bạo hành mà chị P. phải gánh chịu thậm chí còn nặng nề hơn rất nhiều. Bởi, nếu những vết thương về thể xác, thời gian và nững can thiệp về y tế hoàn toàn có thể chữa lành được còn những vết thương tinh thần thì không...

Ví dụ 4: Còn đây là một ngón đòn bạo hành khác mà câu chuyện của nạn nhân này đã từng được đưa ra bàn luận tại nhiều cuộc hội thảo về bạo hành gia đình. Đó là câu chuyện về một người chồng đã tỏ ra rất bình tĩnh khi tận mắt chứng kiến vợ ngoại tình. Không đánh mắng vợ, cũng không gây chiến với tình địch bằng vũ khí, anh ta chỉ nhẹ nhàng xin tình địch 10 nghìn đồng và đón vợ về nhà. Cuộc sống gia đình tưởng như vẫn yên ổn. Chỉ khác là trong tất cả các bữa ăn của gia đình, tờ tiền 10 nghìn luôn luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Bất kể khi nào, các con cần tiền để đóng học, để mua sách vở... thì anh đều chỉ vào tờ tiền này và nói: "Tiền này do mẹ kiếm được đấy, các con cứ lấy mà chi dùng, rồi mẹ sẽ tiếp tục kiếm thêm". Cứ như thế, nhiều tháng sau khi bị chồng tra tấn bằng ngón đòn êm ái này, người vợ đã tự vẫn...

Ví dụ 5: Nhưng kinh hoàng và đen tối nhất là âm mưu của người chồng trong một vụ án hết sức thương tâm xảy ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc. Có anh chàng người dân tộc may mắn cưới được một cô vợ khá xinh đẹp. Một lần, phải đi xa nhà, sợ vợ ngoại tình, anh ta đã bí mật gài một quả lựu đạn dưới dát giường với toan tính tàn ác, nếu vợ mà rước giai về ngủ chung, trọng lượng tăng gấp đôi, dát giường sẽ trĩu xuống và cọ vào kíp nổ làm cho lựu đạn nổ, kết liễu đời cả đôi gian phu dâm phụ. Nhưng, khốn thay, thấy chồng đi vắng, chị vợ đã băng qua một quả đồi, đón mẹ chồng đưa bà về ngủ chung cho bớt cô quạnh. Và, lựu đạn nổ khi bà mẹ chồng và cô con dâu vừa đặt lưng xuống chiếc giường oan nghiệt đó...

(2) Kỹ năng về vận dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ hoà giải

* Câu chuyện thứ nhất: Nhà anh Thịnh sắp đến ngày giỗ bố, anh Thịnh ra chợ làng mua được một con gà trống tía rất ưng ý. Để đề phòng gà xổng chuồng đi mất, anh chặt lông đuôi, lông cánh rồi cẩn thận nhốt gà vào lồng (bội gà) để ở góc vườn. Ấy thế mà chẳng hiểu sao ngay chiều hôm đó, anh đã thấy con gà ung dung đi lại trong góc sân nhà anh Mạnh. 

Tuy hai nhà là hàng xóm, cũng chưa từng xảy ra điều tiếng gì nhưng xưa nay anh Thịnh ít qua lại nhà anh Mạnh. Biết tính anh Mạnh ham cờ bạc, lại hay qua lại với những người có tiếng là “cộm cán” trong vùng nên dù có tiếc con gà, anh Thịnh cũng chỉ quát tháo vài câu trong nhà cho đỡ bực.

Nhưng chị Nhung vợ anh Thịnh thì không chịu được. Chị ra ngay đầu ngõ kể với mấy bà hàng xóm chuyện “làng này có kẻ nhẫn tâm ăn của cả người chết”. Rồi câu chuyện “ăn của cả người chết” lan nhanh như điện, đến tối thì cả làng đều biết nhà Mạnh “bất nhân, bất nghĩa”. 

Chưa ai hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao thì tối hôm đó cả làng đã được một phen khiếp vía khi anh Mạnh cởi trần, mình đầy xăm trổ, tay lăm lăm con dao bầu quyết sang nhà anh Thịnh “xin tý tiết”. 

Nhận được tin báo, các hòa giải viên của thôn lập tức có mặt để hỏi rõ sự tình. Thấy ông Thông hòa giải viên đến, anh Mạnh có phần dịu lại vì ông Thông vốn là người có uy tín trong làng. Ông đề nghị hai nhà cùng ngồi lại để hỏi rõ ngọn ngành. Thì ra, do anh Thịnh không chặn kỹ nên con gà trống tía đã lách được ra khỏi lồng, chạy sang sân nhà anh Mạnh kiếm mồi. 

Anh Mạnh tức vì bị vu là ăn trộm gà, “ăn của cả người chết” nên định sang cho anh Thịnh một trận. Còn chị Nhung vì tiếc con gà nên trong lúc “loan tin” với các bà hàng xóm đã nhỡ miệng nói nhiều câu xúc phạm tới nhà anh Mạnh. 

Hiểu ra câu chuyện, ông Thông nhẹ nhàng phân tích cái hơn, cái thiệt, cái lý, cái tình cho chị Nhung, anh Mạnh. Lúc này, chị Nhung mới tiếc giá như mình đừng vội vàng “nhỏ to, buôn chuyện” mà sang ngay nhà anh Mạnh hỏi kỹ ngọn ngành thì mọi chuyện đã không nên nỗi. Nghe chị Nhung xin lỗi, anh Mạnh vui vẻ gọi ngay con trai mang gà sang trả lại anh Thịnh và còn hứa đến ngày giỗ bố anh Thịnh nhất định sẽ sang ăn cỗ. 

Chuyện “bé xé ra to” như con gà đi lạc của nhà anh Thịnh chỉ là một trong vô vàn câu chuyện mà hàng ngày các hòa giải viên ở cơ sở phải miệt mài hóa giải. 

Kinh nghiệm: Trong trường hợp trên, anh Thông là hòa giải viên đã vận dụng Kỹ năng hòa giải (nắm bắt tình hình sự việc, tổ chức đối thoại, giúp hai bên hiểu rõ vấn đề để các bên có thể loại bỏ mâu thuẩn).

(3) Kỹ năng tư vấn pháp luật

 Anh T và chị H vốn là những người hàng xóm liền kề, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Kể từ khi anh T xây lại nhà mình thành một ngôi nhà 3 tầng khang trang, tình cảm giữa hai nhà không còn như cũ nữa. Không rõ nguyên nhân chính xác của việc một bên tường nhà chị H bị nứt, phải sửa chữa lại thì mới đảm bảo an toàn. Chị H cho là tại nhà anh T xây lại nhà, nên nhà chị mới như vậy. Về phía anh T thì kiên quyết không nhận phần lỗi về mình. Nhận được thông tin, tổ hòa giải ở cơ sở sau khi tìm hiểu vụ việc, đã chủ động đến hỏi chuyện cùng hai gia đình anh T và chị H.

Buổi đầu tiên, hòa giải viên đã mời tổ trưởng khu phố, hai gia đình anh T và chị H cùng hai gia đình hàng xóm của họ. Cuộc nói chuyện diễn ra tại nhà chị H. Tổ hòa giải để cho hai gia đình anh T và chị H phát biểu quan điểm trước. Anh T khăng khăng cho rằng nhà mình không có lỗi, tường nhà chị H nứt là do nhà ấy xây không vững. Còn chị H chứng minh từ khi anh T xây nhà thì nhà mình mới xảy ra hiện tượng nứt tường. Bằng tình cảm xóm giềng, tổ hòa giải đã khuyên nhủ hai gia đình nên thông cảm cho nhau và anh T đồng ý bồi thường cho chị H tu sửa nhà, thống nhất sau 01 tuần sẽ trả lời chính thức cho Tổ hòa giải. Biên bản cuộc họp đã được lập.

Buổi thứ hai, anh T thay đổi ý kiến, không bồi thường cho chị H nữa vì theo người họ hàng làm địa chính của anh T thì anh T không phải bồi thường. Chị H không đồng ý, hai bên đã có lời nói xúc phạm nhau. Anh T nhất quyết mang vụ việc ra tòa án giải quyết. Tổ hòa giải đề ra phương án: Để hai bên suy nghĩ, thương lượng 01 tuần, nếu không được thì đưa vụ việc ra tòa án giải quyết.

Buổi thứ ba, anh T kiên quyết không thay đổi ý kiến. Tổ hòa giải thuyết phục nhưng không thành, hướng dẫn hai bên làm thủ tục để khởi kiện đến tòa án.

Kinh nghiệm:

Về phương thức hòa giải: Tổ hòa giải mới chỉ dùng lý lẽ, chưa áp dụng quy định pháp luật để dẫn chứng, cụ thể là Điều 267 về “Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng” và Điều 268 “Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề” của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Mời thêm thành phần tham gia hòa giải: Tổ hòa giải có thể tìm hiểu nhân thân của người họ hàng làm địa chính của anh T hoặc cán bộ làm công tác địa chính, xây dựng, mời họ tham gia hòa giải, giải thích rõ ràng quy tắc xây dựng và những ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Qua đó, làm rõ mối quan hệ nhân quả trong việc anh T xây nhà 3 tầng và sự nứt tường của nhà chị H. Có như vậy mới thuyết phục được anh T.

Như vậy, với việc vận dụng quy định pháp luật về trách nhiệm trong xây dựng công trình liền kề và mời người có chuyên môn, uy tín tham gia hòa giải nhằm giải thích các vấn đề liên quan một cách chi tiết thì công tác hòa giải sẽ hiệu quả hơn.

(4) Kỹ năng yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc

Để đưa ra lời khuyên (tư vấn) chính xác, đúng pháp luật thì hòa giải viên phải đề nghị đối tượng cung cấp đầy đủ các tài liệu (nếu có) phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp.

Phần lớn các vụ việc tranh chấp thường có các tài liệu như văn bản, thư từ giao dịch...  liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ, tài liệu này là những chứng cứ pháp lý thể hiện nội dung, bản chất của vụ việc hoặc phản ánh diễn biến và quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, có những vụ việc đối tượng chỉ trình bày vụ việc một cách chung chung, chưa muốn cung cấp cho hòa giải viên những văn bản, chứng cứ mà họ cho rằng không có lợi cho mình. Vì vậy, hòa giải viên cần thuyết phục để họ cung cấp đầy đủ. Nếu các bên tranh chấp không cung cấp những tài liệu này thì việc hòa giải khó chính xác và đúng pháp luật.

Sau khi đối tượng đã cung cấp đầy đủ văn bản, tài liệu liên quan, hòa giải viên phải đọc, nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu đó. Trong khi đọc có thể hình thành luôn giải pháp hoà giải trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của vấn đề đưa ra. Đối với những tài liệu mà hòa giải viên không hiểu, không đọc được hoặc có nghi ngờ về tính chân thực của nó thì cần hỏi lại đối tượng để khẳng định ngay. Trong mọi trường hợp, khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho đối tượng thì hòa giải viên không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.

(5) Kỹ năng tra cứu tài liệu tham khảo (Cách tìm văn bản, điều luật áp dụng)

Để đưa ra lời tư vấn pháp luật chính xác, việc tra cứu tài liệu pháp luật trong quá trình hòa giải là điều kiện bắt buộc bởi vì để khẳng định với các bên tranh chấp rằng hòa giải viên đang thực hiện hòa giải theo pháp luật, trên cơ sở pháp luật chứ không theo cảm tính chủ quan, duy ý chí của mình. Ngoài ra, việc tra cứu tài liệu pháp luật có liên quan đến vụ việc hòa giải sẽ giúp hòa giải viên kiểm tra tính chính xác những tư duy và khẳng định chính thức những lời tư vấn của mình là đúng pháp luật vì trong thực tiễn, không phải bao giờ hòa giải viên cũng có thể nhớ chính xác tất cả các quy định thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nếu thấy cần thiết hoặc các bên yêu cầu, thì hòa giải viên có thể cung cấp cho các bên bản sao văn bản, tài liệu đó cùng với lời tư vấn mà mình đưa ra trong trường hợp không tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó thì hòa giải viên có thể chưa đưa ra lời khuyên ngay mà hẹn đối tượng vào một dịp khác để khẳng định lại tính hợp pháp của văn bản pháp luật cần áp dụng.

Trường hợp vụ việc hòa giải có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà hòa giải viên chưa hiểu sâu, thì nên gặp các nhà chuyên môn hay đồng nghiệp khác mà am hiếu sâu về lĩnh vực pháp luật đó để tham khảo ý kiến trước khi đưa ra lời tư vấn, tránh tình trạng hòa giải viên chưa nắm vững pháp luật mà vẫn đưa ra lời tư vấn, giải đáp pháp luật dẫn đến việc hòa giải không chính xác, không đúng pháp luật, trái với nguyên tắc hòa giải, gây hậu quả cho các bên tranh chấp.

Kinh nghiệm: Đối với các tranh chấp thông thường, đó là Bộ luật Dân sự; đất đai có Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn; Hành chính là Luật Xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định xử phạt các lĩnh vực; hình sự Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.

(6) Kỹ năng xem xét, xác minh vụ việc

Việc xem xét, xác minh vụ việc trong hòa giải ở cơ sở chỉ áp dụng đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật hoặc đã được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân giúp đỡ giải quyết mà các bên vẫn không thỏa thuận được với nhau trong cách giải quyết tranh chấp. Việc xem xét, xác minh vụ việc chỉ được tiến hành sau khi đã nghe cả hai bên trình bày, xem xét các giấy tờ, tài liệu các bên cung cấp, hòa giải viên thấy chưa đủ cơ sở để tư vấn, đưa ra những giải pháp, cần phải tiến hành xem xét, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và những người có liên quan để tìm hiểu rõ bản chất vụ việc, tránh vội vàng đưa ra những kết luận phiến diện, chủ quan.

Quá trình xem xét, xác minh vụ việc đòi hỏi hòa giải viên phải thực sự khách quan, vô tư, nhất là khi tiếp xúc với những người có lợi ích liên quan trong vụ việc tranh chấp hoặc thân quen với một bên tranh chấp. Thông thường, những người có lợi ích liên quan đến vụ việc hoặc thân quen luôn bảo vệ việc có liên quan đã làm, nên chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho bên tranh chấp mà họ có liên quan. Vì vậy, hòa giải viên cần khéo léo đề nghị những người có liên quan cung cấp những thông tin, tài liệu chính xác, trung thực. Việc xem xét, xác minh nên lập thành biên bản để làm căn cứ giải thích, thuyết phục các bên tự nguyện hòa giải.

(7) Kỹ năng giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp (Kỹ năng giao tiếp của hòa giải viên)

Giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện thỏa thuận, giải quyết tranh chấp là nghệ thuật hòa giải, đòi hỏi hòa giải viên không chỉ có kiến thức pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tranh chấp, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ hòa giải, có uy tín, phẩm chất đạo đức, có tâm và kinh nghiệm cuộc sống mà còn có khả năng vận dụng pháp luật và đạo đức xã hội để giải thích, thuyết phục các bên đi đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp.

- Tỏ ra thông cảm và tôn trọng đối tượng: khi phân tích, giải thích cho các bên biết hành vi của họ là đúng hay sai, hòa giải viên cần phải xây dựng không khí gần gũi và tin tưởng, cảm thông và tôn trọng đối tượng, có thái độ ân cần, chia sẻ, nhiệt tình, cần phải làm cho không khí nói chuyện được vui vẻ, chan hòa. Như vậy, đối tượng sẽ lắng nghe ý kiến thuyết phục của hòa giải viên. Khi thuyết phục đối tượng mà nói được những suy nghĩ băn khoăn của họ thì dễ đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, mọi lý lẽ, thuyết phục của hòa giải viên phải xuất phát từ lập trường của các bên tranh chấp mà suy nghĩ và đặt vấn đề, đưa ra giải pháp tôi ưu cho các bên tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình.

- Khơi gợi cho các bên tranh chấp những tình cảm tốt đẹp vốn có giữa họ như tình cảm gia đình, tình cảm xóm giêng, bạn bè để họ dễ thông cảm cho nhau.

- Đưa ra những chứng cứ, ví dụ cụ thể để minh chứng cho việc phân tích, lập luận của hòa giải viên.

Kiên trì, thuyết phục, không nên nôn nóng: hòa giải viên cần suy nghĩ chín chắn, điều gì nên nói, điều gì không nên nói, ngoài ra còn phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết từng bước, nhất là đối vời những người có thái độ bảo thủ hoặc bất hợp tác.

Mục tiêu đặt ra đối với kỹ năng hòa giải là những lời khuyên thuyết phục và hướng dẫn của hòa giải viên phải được các bên chấp nhận, đồng thuận nghe theo và làm theo bằng việc các bên tự định đoạt giải quyết dứt điểm tranh chấp, lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên một cách tốt nhất.

Làm rõ những mặt lợi và bất lợi nếu để vụ việc mâu thuẩn tiến xa hơn.

Tình huống: Có cặp vợ chồng đã đông đủ cháu nội cháu ngoại nhưng chồng hay say xỉn nên chồng đánh vợ như cơm bữa. Hòa giải viên phải đến tận nhà để nói chuyện với ông chồng, lúc đến thì bát đũa, nồi niêu đang vứt loẻng xoẻng ngoài sân vì ông ta vừa say rượu và đánh vợ xong. Biết tình thế không thể ngồi nói chuyện phân bua khúc mắc giữa hai vợ chồng này, hòa giải viên đã đưa pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ra để phân tích mức độ vi phạm nặng nhẹ. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ phân tích gãy gọn, ông chồng đã nhận lỗi và hứa sẽ không đánh vợ nữa.

Kết luận: Những kỹ năng trên đây cần phải rèn luyện và đòi hỏi hòa giải viên phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức bằng nhiều hình thức.

          B. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ

I. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1. Khái niệm, những trường hợp thừa kế theo pháp luật, người thừa kế theo pháp luật

- Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: Không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

(Trong quá trình xây dựng dự thảo, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm vào hàng thừa kế này đối tượng là con dâu, con rể vì đây là những người có đóng góp trực tiếp vào cuộc sống của gia đình, đặc biệt là con dâu. Tuy nhiên, do còn những bất cập (chủ yếu các vấn đề nảy sinh gây chia rẻ trong gia đình) nên luật không đưa vào).

+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

- Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

2. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt

- Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định.

- Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về thừa kế thế vị, thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

- Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác: Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Ông A và bà B là vợ chồng. ông bà có 2 người con: Con trai là C và con gái là D. Anh C kết hôn với chị Đ và sống cùng ông bà AB trên mảnh đất của ông bà rộng 360m2. Chị C đi làm ăn xa và lấy chồng ở tỉnh khác. Năm 1973 ông A mất. Bà B ủy quyền cho con trai là ông C đứng tên trên sổ địa chính để sử dụng mảnh đất này từ năm 1983 và cũng đồng ý cho ông C, chị D (con gái ông bà) không có ý kiến gì. Vợ chồng ông CĐ xây dựng nhà cửa gồm một ngôi nhà hai tầng để ở. Thời gian gần đây, ông C tiến hành làm sổ đỏ mang tên ông. Trong quá trình làm thì bà D ở xa về không đồng ý và đòi chia đất.

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Do không nêu rõ mảnh đất này có trước khi kết hôn hay sau khi kết hôn, nên có 02 trường hợp: Mảnh đất này thuộc tài sản riêng của ông A hoặc mảnh đất thuộc tài sản chung của vợ chồng ông A bà B.

Trường hợp 1:

Nếu mảnh đất được xác định là tài sản riêng của ông A thì toàn bộ diện tích đất được xác định là khối di sản thừa kế của ông A để lại. Do ông A không để lại di chúc nên khối di sản trên được chia theo pháp luật, tức là chia theo hàng thừa kế. Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hàng thừa kế như sau (quy định về hàng thừa kế trong BLDS 2005 giống BLDS 2015):

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Theo quy định trên, bà B, ông C, bà D thuộc hàng thừa kế thứ nhất, do vậy sẽ được hưởng khối di sản bằng nhau, nghĩa là mỗi người được hưởng: 360m2/3 = 120m2.

Ông C được nhận: 120m2 (diện tích đất ông được thừa kế từ cha) + 120m2 (đất bà B nhận thừa kế từ ông A và tặng cho ông C) = 240m2.

Trường hợp thứ 2:

Nếu mảnh đất là tài sản chung của ông A bà B thì di sản ông A để lại chỉ là ½ mảnh đất, ½ còn lại thuộc quyền sử dụng của bà B. Theo đó, nếu chia theo pháp luật, phần di sản mà mỗi người được hưởng từ ông A là: (360/2)/3 = 60m2.

Trong trường hợp này, diện tích đất ông C có quyền sử dụng là 60m2 (thừa kế từ cha) + 60m2 (bà B thừa kế của ông A và tặng cho ông C) + 180m2 (1/2 mảnh đất thuộc quyền sử dụng của bà B trong khối tài sản chung và cho ông C) = 300m2.

Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng ông A mất năm 1973, theo BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó). 

II. THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1. Khái niệm di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

2. Người lập di chúc

Người thành niên có đủ điều kiện: Minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép, có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Người lập di chúc có quyền sau đây:

+ Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

+ Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

+ Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

3. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

a) Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp lập di chúc bằng đánh máy (trước đây chỉ có có viết tay), cụ thể: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

 Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. So với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 đã quy định toàn diện, đầy đủ hơn về trường hợp “người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

- Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực: Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc. Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

+ Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

+ Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực, cụ thể: Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp “di chúc của người đang bị tạm giữ”.

b) Di chúc miệng

Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

4. Di chúc hợp pháp

Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện nêu trên.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

5. Nội dung của di chúc

Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

6. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc; gửi giữ di chúc; di chúc bị thất lạc, hư hại

Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về công chứng. Người giữ bản di chúc có nghĩa vụ: Giữ bí mật nội dung di chúc; giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc; giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp: Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

7. Hiệu lực của di chúc

Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.

8. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.

 Quy định nêu trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định.

9. Di sản dùng vào việc thờ cúng

Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

10. Di tặng

Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm điều kiện “người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế’.

Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

11. Công bố di chúc và giải thích nội dung di chúc

Trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc. Trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.

Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.

Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực. So với Bộ luật năm 2005, Bộ luật năm 2015 sửa đổi quy định về việc giải quyết khi không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong khi Bộ luật năm 2005 quy định: “Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật”.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THỪA KẾ

Ví dụ: Hai cha con ông A và ông B chở nhau đi trên đường thì bị tai nạn giao thông qua đời cùng một lúc. Việc thừa kế của cha và con được hiểu như thế nào? Người con có được thừa kế của người cha không và ngược lại?.

Nếu ông B (người con) có 01 con trai nhỏ. Cháu trai này có được thừa kế tài sản từ người ông không?

1. Người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm; từ chối nhận di sản; người không được quyền hưởng di sản; tài sản không có người nhận thừa kế

a) Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm

Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định.

Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

b) Từ chối nhận di sản

Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

 Bộ luật năm 2015 nêu rõ: Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến (trước đây chỉ yêu cầu thông báo) người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

c) Người không được quyền hưởng di sản

Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Những người trên đây vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

d) Tài sản không có người nhận thừa kế

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.

2. Quyền thừa kế; thời điểm, địa điểm mở thừa kế và di sản

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bổ sung quy định mới: Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

 Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định theo quy định.

Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

3. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

4. Người quản lý di sản

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định nêu trên thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Người quản lý di sản (không phải là cơ quan nhà nước) có nghĩa vụ sau đây:

+ Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

+ Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có nghĩa vụ sau đây:

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

+ Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Bên cạnh các nghĩa vu, người quản lý di sản có các quyền sau đây:

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra; cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý  có quyền sau đây:

+ Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có quyền sau đây:

+ Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

5. Thời hiệu thừa kế

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Quy định gặp vướng mắc khi thực hiện trên thực tế vì thời hiệu khởi kiện 10 năm là quá ngắn để thực hiện quyền khởi kiện. Do đó, quyền lợi của người thừa kế tài sản không được pháp luật bảo vệ. Để được hưởng di sản thừa kế, không ít đương sự đã có những hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội. Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định cụ thể phương án xử lý những di sản thừa kế khi hết thời hiệu 10 năm nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý cũng như số phận thực tế của những di sản này.

Từ bất cập trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra quy định mới về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Cụ thể: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.

+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định trên đây.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

IV. THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

1. Họp mặt những người thừa kế

Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây: Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; cách thức phân chia di sản. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

2. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Bộ Luật năm 2015 sửa đổi về thứ tự ưu tiên thanh toán đối với trường hợp “Chi phí cho việc bảo quản di sản”. Nội dung này được Bộ luật năm 2005 xếp vị trí thứ 9, Bộ luật năm 2015 xếp vị trí thứ 3; sửa đổi, bổ sung chi phí “Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước” thành “Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước”.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

(1) Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

(2) Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

(3) Chi phí cho việc bảo quản di sản.

(4) Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

(5) Tiền công lao động.

(6) Tiền bồi thường thiệt hại.

(7) Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

(8) Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

(9) Tiền phạt.

(10) Các chi phí khác.

3. Phân chia di sản

a) Phân chia di sản theo di chúc

Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

b) Phân chia di sản theo pháp luật

Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

c) Hạn chế phân chia di sản

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp được gia hạn và không hạn chế đối với trường hợp đã kết hôn, cụ thể: Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm (Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế).

d) Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

 

 

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Ngày cập nhật 11/09/2020

MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

 

Ở một nước mà quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” được coi trọng như ở nước ta thì hoạt động hòa giải ở cơ sở sẽ luôn là sợi dây vô hình, bền chặt, góp phần kết nối và giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc. 

I. Bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở

Hoạt động hòa giải cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định chủ trương, phát huy tinh thần dân chủ mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Nhà nước, coi trọng sự đồng thuận của nhân dân, tăng cường đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra các cơ quan Nhà nước giải quyết. Để hoạt động hòa giải trở về đúng tính chất là hoạt động tự quản của nhân dân, do nhân dân tự quyết định trong đó vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở là yếu tố quan trọng, góp phần dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,

Như vậy, không hành chính hóa hoạt động hòa giải ở cơ sở. Hoạt động này phát huy được tính tự quản của cộng đồng dân cư nhưng đồng thời hạn chế được sự tham gia của Nhà nước đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở, đồng thời nâng cao vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với công tác này. Bản chất của hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện của người dân, do người dân tự thực hiện, Nhà nước chỉ hỗ trợ để người dân phát huy ý thức, trách nhiệm của mình trong giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trên địa bàn ngay từ khi mới phát sinh.

II. Các văn bản pháp luật

+ Luật Hòa giải ở cơ sở số 35/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

+ Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 4 năm 2014.

+ Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ngày 30 tháng 7 năm 2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết số 14/2015/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh và Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14 tháng 01 năm 2016 quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

III. Phân biệt hòa giải ở cơ sở với hòa giải khác

Hòa giải ở cơ sở khác với việc hòa giải trong tố tụng và hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai.

1. Theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở, Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định.

Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố).

Các bên là cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật mà theo quy định được hòa giải ở cơ sở.

2. Hòa giải trong tố tụng dân sự được áp dụng đối với các trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình. Trong tố tụng, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc. Hiệu lực của các thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với các bên liên quan. Không được hòa giải trong một số trường hợp: Yêu cầu bồi thường gây thiệt hại tài sản của Nhà nước; những vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự trái pháp luật; bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Thành phần hòa giải là Thẩm phán, Thư ký, đương sự. Việc hòa giải phải được lập biên bản hòa giải thành. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, các bên không thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Thỏa thuận có hiệu lực ngay. Thỏa thuận có thể bị kháng nghị theo tủ tục Giám đốc thẩm nếu có căn cứ thỏa thuận bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật.

(Giám đốc thẩm là xét lại quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng (về tố tụng, về áp dụng pháp luật, không phù hợp tình tiết khách quan của vụ án).

3. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một khâu bắt buộc trước khi tiếp tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2014, quy định hòa giải tranh chấp đất đai tại Điều 202 và 203:

Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

(1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

(2) Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây: Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền:

 Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

4. Quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án

Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, tại Chương XXXIII của Bộ luật này quy định “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”. Theo đó, Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự, tức là sau khi có quyết định công nhận của Tòa án, các bên phải tự nguyện thi hành thỏa thuận của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành của Tòa án; hết thời gian này, bên phải thực hiện nghĩa vụ có điều kiện thực hiện nghĩa vụ mà không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện, bên có quyền được nộp đơn yêu cầu thi hành cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Để hướng dẫn cho các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở (nâng cao hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành ở cơ sở), ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Công văn số 3774/UBND-TP ngày 07/6/2017 để triển khai thực hiện.

Theo đó, để được Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;

- Vụ, việc được hòa giải tuân thủ đúng quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở;

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;

- Có văn bản hòa giải thành. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba;

- Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.

Thời hạn gửi đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là 06 tháng, kể từ ngày lập văn bản hòa giải thành. Cơ quan tiếp nhận đơn yêu cầu là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, làm việc.

- Hiệu lực của Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án:

+ Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

+ Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

+ Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở.

Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

Việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc không gửi đơn yêu cầu.

IV. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Thủ bầu hòa giải viên, có thể nói khá “rườm rà”, phức tạp, cụ thể có 03 bước:

- Bước 1: Chuẩn bị bầu hòa giải viên (Trong thời hạn 20 ngày, trước ngày dự kiến bầu hòa giải viên): Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận dự kiến những người được bầu làm hòa giải viên; thống nhất thời gian bầu hòa giải viên; quyết định hình thức bầu hòa giải viên; quyết định danh sách Tổ bầu hòa giải viên; thông báo công khai danh sách bầu hòa giải viên.

- Bước 2: Tổ chức bầu hòa giải viên: Bầu hòa giải viên bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp được tiến hành khi có trên 50% đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố trở lên tham dự; hoặc bầu hòa giải viên bằng hình thức phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn, Tổ dân phố.

- Bước 3: Kết quả bầu hòa giải viên: Trưởng ban công tác Mặt trận lập hồ sơ về kết quả bầu hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để xem xét, quyết định.

 

Trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

a) Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. Nguyên tắc thể hiện qua việc hòa giải chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của các bên; tôn trọng sự thỏa thuận; trong quá trình thực hiện thỏa thuận cũng không được áp đặt, cưỡng chế.

b) Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi.

c) Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp cần phải thông báo để có biện pháp phòng ngừa khi mâu thuẩn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng; để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự.

Phân tích về bí mật thông tin đời tư:

Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình:

1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Phạm vi và nội hàm đặc trưng của đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình không được quy định rõ ràng dẫn tới có nhiều vướng mắc trên thực tiễn.

Ví dụ như vướng mắc trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học sinh có phải bí mật cá nhân, đời sống riêng tư’’ hay không. Vấn đề này thời gian vừa qua được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường trung học phổ thông và cơ quan báo chí rất quan tâm khi công bố công khai điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông của thí sinh. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em, tại Điều 33 quy định “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em”. Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên 16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không. Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí sinh trên 16 tuổi.

- Việc xác định các hành vi nào là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc không xâm phạm còn chưa có những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể mà chủ yếu nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Qua rà soát, nghiên cứu những biểu hiện sau đây là hành vi xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư : (1) Hành vi thu thập, công bố các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân không được sự đồng ý của người đó hoặc của nhân thân cá nhân trong trường hợp cá nhân chết, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật ; (2) Hành vi xâm phạm bất hợp pháp chỗ ở của cá nhân ; (3) Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân. Tuy nhiên ở nước ta và ngay cả một số quốc gia tiến bộ, việc xác định hành vi xâm phạm không hề dễ dàng và thường gây nên sự tranh cãi của công chúng và khi xét xử vụ việc cụ thể nào đó thường do thẩm phán quyết định dựa trên kinh nghiệm và tương tự pháp luật. Thời gian vừa qua có một số vụ việc còn có nhiều quan điểm tranh luận xoay quanh như:

Các thông tin liên quan đến tổng tài sản của cá nhân và hành vi công khai thông tin có bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không còn có tranh cãi. Báo Đại Đoàn Kết có đưa tin về ‘‘Những người giàu nhất Việt Nam’’. Có quan điểm cho rằng pháp luật không buộc cá nhân phải công khai tài sản của mình trừ khi được sự đồng ý của họ, ngoại trừ một số trường hợp cá nhân phải công khai tài sản theo quy định của pháp luật hoặc buộc chứng minh nguồn gốc tài chính; quan điểm khác cho rằng tổng tài sản của những người giàu nhất Việt Nam đã được thể hiện công khai thông qua những thông tin dữ liệu được công khai ví dụ như tổng số cổ phiếu niêm yết tại sàn chứng khoán, hay tổng số bất động sản góp vốn vào công ty… do đó tổng tài sản của những người này được phép công khai mà không cần xin phép họ.

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đặc biệt là hình ảnh liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng được đưa ra tranh luận bởi lẽ sự phân định giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền tự do báo chí còn chưa có quy định rõ ràng. Hoặc thậm chí việc đăng tải hình ảnh của cá nhân phạm tội lên trên báo chí hoặc mạng xã hội cũng là một vấn đề còn tranh cãi.

Ngày 20/7/2017, Bộ Tư pháp tổ chức họp báo định kỳ để thông tin về công tác tư pháp quý II/2017. Người phát ngôn Bộ Tư pháp, Chánh Văn phòng Bộ Đỗ Đức Hiển chủ trì buổi họp báo cùng sự tham dự của đại diện lãnh đạo nhiều đơn vị liên quan thuộc Bộ để trả lời hàng loạt vấn đề mà dư luận quan tâm trong thời gian qua. Về vấn đề liên quan giữa bảo vệ bí mật đời tư với công khai điểm thi của thí sinh thi tốt nghiệp THPT quốc gia, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế Nguyễn Hồng Hải quan niệm, Bộ luật Dân sự năm 2015 tuy có quy định nguyên tắc về bảo vệ bí mật đời sống riêng tư nhưng thế nào là đời sống riêng tư thì Bộ luật không quy định mà việc quy định cụ thể sẽ do các luật chuyên ngành hướng dẫn. Đối với công bố điểm thi, theo Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định hướng dẫn Luật, với học sinh dưới 16 tuổi thì thông tin về kết quả học tập là thông tin đời sống riêng tư và thông tin này được bảo vệ theo nguyên tắc thông tin cá nhân. Học sinh từ 16 tuổi trở lên thì hiện không có quy định cụ thể nào nói đây là thông tin đời sống riêng tư cần bảo vệ. Việc công khai điểm thi của học sinh từ 16 – 18 tuổi có bị cấm hay không thì phải có điều luật quy định cụ thể. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm quốc tế, ông Hải nhận thấy các nước thường xây dựng 1 trang web điện tử trực tuyến, những cá nhân cần biết điểm sẽ tra bằng số báo danh, số ID của mình. “Để hạn chế những rủi ro không cần thiết đối với lợi ích nhân thân, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kịp thời nghiên cứu hoàn thiện vấn đề này”.

Ở nước ngoài, nhiều nước chưa có khái niệm rõ ràng về vấn đề này và nhiều nước khi xét xử áp dụng án lệ. Vụ việc diễn ra tại thành phố Dortmund Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến việc xác định hành vi có xâm phạm đời sống riêng tư của cá nhân như sau: ông Robert xây một khu xông hơi sau vườn, mỗi lần tới đây, ông quyết định không mặc quần áo mà khỏa thân đi vào phòng xông hơi. Hàng xóm nhiều lần chứng kiến hành động này và họ cảm thấy không hài lòng và họ quyết định khởi kiện lên Tòa án thành phố Dortmund vì “không thể chịu nổi hình ảnh khỏa thân” của Robert. Thẩm phán nói rằng mỗi tuần ông Robert sử dụng phòng xông hơi 2 lần và việc khỏa thân theo tần suất này là “chấp nhận được”. Thẩm phán nói rằng không hề thấy dấu hiệu vi phạm hình sự trong trường hợp này và ông Robert hoàn toàn có quyền được khỏa thân đi lại tự do trong vườn nhà mình. Tuy nhiên hàng xóm nói Robert thường xuyên say xỉn, không chịu xây toilet và thường đi vệ sinh vào những bụi việt quất ông trồng. Thẩm phán đáp lời rằng luật pháp không cấm việc một người đi vệ sinh trong vườn nhà của ông ta. Vụ việc kết thúc và luật sư của ông Hans nói rằng “đây là một trải nghiệm đau buồn”.
        Vụ việc tại thành phố Ottawa vào tháng 10/2017, một viên chức thành phố có tên Dunn bị Thành phố Ottawa yêu cầu tiết lộ tất cả các email được gửi hoặc nhận bởi Rick O'Connor - một Luật Sư Thành Phố, bởi lẽ email này do Thành phố cấp cho Dunn để làm việc, và có dấu hiệu nghi ngờ Dunn đã tiết lộ một số thông tin bí mật của Thành phố. Qua nhiều lần tranh luận tại Tòa, thẩm phán đã phán quyết rằng khó phân biệt giữa "thông tin cá nhân và tài liệu của nhân viên được lưu trữ dưới hình thức giấy trong tủ hồ sơ của chính phủ và bàn làm việc và các hồ sơ lưu trữ dưới dạng điện tử trong hệ thống máy tính do chính phủ sở hữu và nội dung liên lạc qua email giữa O'Connor và Dunn không liên quan gì đến các vấn đề kinh doanh của thành phố. Do đó, việc tiết lộ nội dung trong email của Dunn sẽ vi phạm quyền riêng tư của O'Connor và Dunn".

Bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín…

Tình huống:

Thời gian gần đây, chị B nhận thấy những biểu hiện khác thường ở anh A – chồng chị B. Ở nhà, anh thường lạnh nhạt, ít nói, hay cáu gắt với vợ con hơn trước. Chi B sinh nghi chồng mình có người phụ nữ khác, hai vợ chồng thường xuyên to tiếng với nhau. Chi B ôm con về nhà mẹ đẻ.

Giả sử có 02 trường hợp:

TH1: Sau khi gặp gỡ với anh A, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A. Do trong một lần tụ tập bạn bè, không làm chủ được hành vi của mình, anh đã có quan hệ với một tiếp viên, sau đó biết được cô gái này bị HIV. Từ đó, vừa lo lắng, vừa ân hận, không biết mình đã bị lây nhiễm chưa, và vợ mình có bị không. Trường hợp này hòa giải viên phải khuyên giải anh A đi xét nghiệm và không được tiết lộ về thông tin này vì nó ảnh hưởng nghiêm trọng tói cuộc sống của anh A và những người xung quanh.

TH2: Sau khi tìm hiểu, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A là do có người phụ nữ khác, thường xuyên qua lại với người này. Trường hợp này anh A vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

d) Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

đ) Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Quy định về bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở là nội dung mới so với quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở trước đây, phù hợp với yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ và pháp luật về bình đẳng giới. Bình đẳng giới thể hiện trong tổ chức và trong hoạt động. Trong tổ chức, phải có hòa giải viên nữ tham gia tổ hòa giải; trong hoạt động hòa giải các vụ việc, phải xét đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em.

e) Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.

V. Kinh phí và chế độ của Tổ hòa giải, hòa giải viên

1. Nguồn kinh phí hỗ trợ

Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở; chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc và hỗ trợ các chi phí cần thiết khác cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.

2. Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên

Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên bao gồm:

- Chi hỗ trợ cho hòa giải viên bao gồm: Chi hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc; chi hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải;

- Chi hỗ trợ tổ hòa giải để mua tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ hoạt động của tổ hòa giải; tổ chức các cuộc họp, sơ kết, tổng kết hoạt động của tổ hòa giải;

3. Mức chi hỗ trợ

Hiện nay, Thông tư hướng dẫn về nội dung chi và mức chi trong công tác hòa giải đang được Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính phối hợp ban hành. Do đó, văn bản áp dụng ở địa phương hiện nay vẫn là Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 về việc quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.

Một số mức chi cụ thể như sau:

- Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải):

+ Hòa giải thành: 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải;

+ Hòa giải không thành: 150.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải.

- Hỗ trợ chi phí mai táng cho người tổ chức mai táng hòa giải viên gặp tai nạn hoặc rủi ro bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở: Mức chi bằng 05 tháng lương cơ sở.

- Chi hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải (chi mua văn phòng phẩm, sao chụp tài liệu, nước uống phục vụ các cuộc họp của tổ hòa giải): 100.000 đồng/tổ hòa giải/tháng.

- Chi bồi dưỡng thành viên Ban tổ chức bầu hòa giải viên tham gia họp chuẩn bị cho việc bầu hòa giải viên: 50.000 đồng/người/buổi.

- Chi tiền nước uống cho người tham dự cuộc họp bầu hòa giải viên: 10.000 đồng/người/buổi.

4. Điều kiện hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ, việc của hòa giải viên

- Vụ, việc được tiến hành hòa giải và đã kết thúc theo quy định.

- Hòa giải viên không vi phạm nghĩa vụ của hòa giải viên.

Như vậy, cần lưu ý rằng, một vụ việc dù được hòa giải thành hay không nhưng đáp ứng các điều kiện trên thì được hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ việc.

5. Phương thức và thủ tục hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên

- Việc hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên được thực hiện sau khi vụ, việc hòa giải kết thúc.

- Hồ sơ thanh toán hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên:

Nhìn chung, hồ sơ thanh toán là những chứng từ (giấy tờ, hóa đơn) liên quan chứng minh công việc đã thực hiện theo yêu cầu, bao gồm:

+ Tổ trưởng tổ hòa giải lập hồ sơ đề nghị thanh toán thù lao cho hòa giải viên, bao gồm: Giấy đề nghị thanh toán thù lao của hòa giải viên có ghi rõ họ, tên, địa chỉ của hòa giải viên; tên, địa chỉ tổ hòa giải; số tiền đề nghị thanh toán; nội dung thanh toán (có danh sách các vụ, việc trong trường hợp đề nghị thanh toán thù lao cho nhiều vụ, việc); chữ ký của hòa giải viên; chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải và xuất trình Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để đối chiếu khi cần thiết.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định và trả thù lao cho hòa giải viên thông qua tổ hòa giải; trường hợp quyết định không thanh toán cho hòa giải viên thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Tổ hòa giải trả thù lao cho hòa giải viên theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được thù lao.

6. Các trường hợp hòa giải viên được hưởng hỗ trợ, tạo điều kiện khắc phục hậu quả khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Trường hợp được hỗ trợ

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trong khi đang thực hiện hòa giải.

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trên đường đi và về từ nơi ở đến địa điểm thực hiện hòa giải trên tuyến đường và trong khoảng thời gian hợp lý.

- Các khoản được hỗ trợ

Hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ như sau:

+ Chi phí cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; nếu thu nhập thực tế của hòa giải viên không ổn định hoặc không thể xác định được thì áp dụng cách tính theo thu nhập bình quân hàng ngày của người làm công ăn lương chia theo khu vực thành thị, nông thôn, loại hình kinh tế ngoài nhà nước trong thời gian cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút.

Gia đình của hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ một lần bằng tiền để chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc hòa giải viên trước khi chết; người tổ chức mai táng được hỗ trợ chi phí cho việc mai táng.

7. Thủ tục thực hiện hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Hồ sơ

+ Giấy đề nghị hỗ trợ của hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng có xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc Trưởng ban công tác Mặt trận trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại là tổ trưởng tổ hòa giải. Giấy đề nghị hỗ trợ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người yêu cầu hỗ trợ; lý do yêu cầu hỗ trợ;

+ Biên bản xác nhận tình trạng của hòa giải viên bị tai nạn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra tai nạn hoặc cơ quan công an nơi xảy ra tai nạn (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Giấy ra viện, hóa đơn thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Văn bản, giấy tờ hợp lệ về thu nhập thực tế theo tiền lương, tiền công hằng tháng của người bị tai nạn có xác nhận của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp), bao gồm: Hợp đồng lao động, quyết định nâng lương của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động hoặc bản kê có thu nhập thực tế của hòa giải viên bị tai nạn và các giấy tờ chứng minh thu nhập thực tế hợp pháp khác (nếu có);

+ Giấy chứng tử trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp).

- Hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ  đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã ra quyết định công nhận hòa giải viên.

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện kèm theo hồ sơ đề nghị hỗ trợ.

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, ra quyết định hỗ trợ; trường hợp không hỗ trợ thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Chậm nhất sau 03 ngày làm việc, kể từ ngày ngày nhận được quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc chi tiền hỗ trợ.

VI. Một số kỹ năng hòa giải ở cơ sở

1. Kỹ năng hòa giải là một yếu tố quan trọng trong công tác hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng. Kỹ năng hòa giải tốt sẽ giúp phát huy tốt hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở; ngược lại, có thể làm cho sự việc không chỉ hòa giải không thành mà còn có thể gây nên những hậu quả khó lường.

Câu chuyện thực tế:

Một vụ việc khiến hòa giải viên buồn và “sốc”, đó là chuyện chồng rượu chè thường xuyên đánh đập vợ, dẫn đến, người vợ "tức nước vỡ bờ", không làm chủ được hành vi đã “xuống tay” giết chồng.

Chị Minh là người phụ nữ rất đảm đang, tháo vát. Chị lấy anh Hòa, sinh được được một bé gái thì chị Minh không thể chịu đựng nổi tính tình côn đồ, thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ của ông Hòa. Chị bỏ chồng, đi xã làm ăn. Đứa con chung của hai người ở cùng bố không lâu thì mất.

Ông Hòa đi lấy vợ hai thì sinh thêm được một con gái. Nhưng với bản tính của ông Hòa, dường như khó có người phụ nữ nào chung sống được lâu dài. Thế nên chỉ sau một thời gian ngắn gắn bó, ông Hòa và vợ hai chia tay. Ông Hòa đón chị Minh về “nối lại tình xưa”. Vì vẫn còn tình cảm với ông Hòa nên chị Minh về sống cùng, sau đó sinh được thêm 2 người con.

Là người giỏi thu vén nên kinh tế trong gia đình đa phần do một tay chị Minh tạo dựng. Ông Hòa vốn bê tha rượu chè nên không chỉ không giúp đỡ kinh tế cho vợ mà còn thường xuyên bị “ma men” điều khiển, đánh đập vợ con.

Chị Minh cứ sắm sửa được cái gì, ông lên cơn say là đập nát hết. Những lần mới cãi vã, người trong thôn trong xóm còn tới can thiệp, khuyên giải, Tổ hòa giải cũng vào cuộc nhiều lần nhưng hòa thuận được mấy hôm rồi  vẫn “đâu lại vào đấy” nên không ai còn  thiết tha với chuyện cãi nhau như cơm bữa của gia đình ông Hòa bà Minh nữa.

Chị Thơm là Hòa giải viên vẫn ghé qua để trò chuyện với bà Minh và ông Hòa. Chị đã khuyên giải và mong muốn hai vợ chồng ông Hòa và bà Minh cố gắng làm ăn. Nhất là ông Hòa không còn rượu chè nữa, hãy tu chí làm ăn giúp đỡ bà Minh. Nghe chị Thơm nói, cả hai ông bà đều gật đầu quyết chí. Nhưng lại được mấy hôm chị Thơm lại phải chứng kiến cảnh vợ chồng ông bà cãi vã, xô xát nhau.

Khi “con giun xéo lắm cũng quằn”, trong một lần bị chồng đánh đập, chửi bới rồi đem hết quần áo của mình ra sân đốt, bà Minh đã cầm kéo đâm chồng khiến nạn nhân tử vong.

Hoặc có trường hợp chị ham làm công tác xã hội thường xuyên đi làm về muộn, ít có thời gian chăm sóc gia đình và các con. Anh chồng khó chịu, thường mắng chửi vợ. Chị vợ lại nóng tính, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau ảnh hưởng đến an ninh, trật tự thôn xóm.

Thực tế có rất nhiều các trường hợp phải nhờ đến hòa giải viên, hôn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, các tranh chấp nhỏ... Và thực tế công tác hòa giải ở cơ sở cũng hết sức vất vả. Đây được ví như công việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nhưng có những trường hợp khi hòa giải thì hòa giải viên bị những người trong cuộc chửi bới, dọa đánh, đe dọa... Chế độ thì rất ít, có khi còn không có, nhưng trách nhiệm lại nặng nề và đòi hỏi hòa giải viên phải có các kỹ năng nhất định. 

2. Khái niệm kỹ năng hòa giải

Kỹ năng hòa giải là khả năng của hòa giải viên vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội, bằng sự nêu gương của mình và kinh nghiệm cuộc sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp, mâu thuẩn, nhằm xóa bỏ bất đồng và đạt được thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật ở cơ sở.

3. Một số kỹ năng hoà giải ở cơ sở cần lưu ý

(1) Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội.

Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội là một kỹ năng rất quan trọng, không thể thiếu trong công tác hòa giải ở cơ sở. Bất kỳ một vụ việc hòa giải nào cũng cần viện đến kiến thức pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội.

Từ thực tiễn hòa giải cho thấy, các vụ việc mâu thuẩn xảy ra phổ biến nhất là trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Xã hội càng hiện đại thì dường như chuyện tan vỡ gia đình ngày càng phổ biến hơn. Trước ở làng ở quê hiếm lắm mới thấy có đôi trục trặc dẫn tới bỏ nhau song hiện giờ số vụ đã nhiều hơn. Mỗi năm, có nhiều các vụ hòa giải từ to đến nhỏ: ghen tuông, cãi vã cho tới việc quyết định ly hôn.

Cái khó của những hòa giải viên cơ sở chính là người dân ở nhiều thôn quê, làng xã trình độ dân trí còn thấp, vẫn "trọng nam khinh nữ", người đàn ông quen sống gia trưởng, người phụ nữ luôn luôn chịu nhịn nhục, để người chồng hành hung. Hoặc là người phụ nữ vì quá uất ức, quẫn trí nên đã có những hành động thiếu suy nghĩ....

Để hòa giải các cặp đôi "sứt mẻ" thành công, hòa giải viên phải bàn họp, nghĩ nhiều cách khác nhau.

Các hòa giải viên mong muốn giúp những cặp vợ chồng trong thôn quê của mình hiểu rõ về pháp luật, nhất là pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. Họ chịu nghe lời của các hòa giải viên để sống tốt hơn, đầm ấm hơn. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết hòa giải viên cần báo cáo cư quan chức năng can thiệp sớm vào các vụ việc để không có những hậu quả đau lòng xảy ra.

Ví dụ về hậu quả nếu không can thiệp kịp thời

Ví dụ 1: Qua mai mối, Khánh quen biết vợ tên là Lan Anh, là một cô gái hiền lành, ít nói, đang làm công nhân may. Sau khi lấy nhau, vợ chồng Khánh đã được gia đình nhà vợ cho mượn một ngôi nhà để ở với đầy đủ tiện nghi. Sau đó, Khánh có bồ và vì vậy mà những cuộc cãi vã, xô xát xảy ra thường xuyên. Thậm chí có lúc bồ của Khánh còn nhắn tin vào máy điện thoại di động xui Khánh bỏ vợ và không được có con với vợ. Trong một lần tình cờ, Lan Anh đọc được cái tin nhắn này trong điện thoại của Khánh nên 02 vợ chồng cãi nhau, dẫn đến xô xát và Khánh đã đánh chết vợ.

Ví dụ 2: Hai vợ chồng anh Tuyên làm xe ôm, còn chị Huệ thì buôn bán vặt vãnh, nuôi 02 đứa con. Tiền kiếm được không đáng là bao mà Tuyên thì lại ham mê lô đề. Chị Huệ khuyên bảo mãi không được và cũng vì chuyện đó mà hai vợ chồng cãi vã. Bực tức, Tuyên đã xuống tay giết vợ rồi nói dối hai con là mẹ đã bỏ ba bố con để đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc. Sự thật chỉ được phát hiện cho tới khi những phần máu thịt đớn đau của người mẹ xấu số đó sau nhiều ngày bị dìm xuống hồ sâu đã nổi lên mặt nước và được quần chúng nhân dân phát hiện.

Ví dụ 3: Nếu như đấm, đá, đập... được coi là lối bạo hành truyền thống thì nay, trong thời đại của công nghệ, nhiều kiểu bạo hành quái đản đã nảy sinh. Khi kết hôn với nhau, cả ông D. và chị P. đều đã trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc và mỗi người đều đã có một con riêng. Tưởng sau những bất hạnh, cuộc hôn nhân lần này sẽ mang đến hạnh phúc. Nhưng không, chỉ sau một thời gian không dài thì cuộc sống chung bắt đầu cơm không lành, canh không ngọt.

Không giống như nhiều người phụ nữ khác, chị không phải hứng chịu những trận đòn thừa sống thiếu chết của chồng. Không phải chịu nỗi đau về thể xác nhưng người đàn ông này đã ra những đòn bạo hành về tinh thần rất quái đản để hành hạ chị. Đầu tiên là ông ta thay toàn bộ khóa cửa nhà để mẹ con chị mất chỗ cư trú. Sau đó, ông ta bắt đầu tự chế tạo ra hàng loạt những tờ rơi có tiêu đề là "Thư mời" với nội dung: Chị P. là gái gọi, kèm theo địa chỉ, số điện thoại "để khách làng chơi tiện liên hệ". Cùng với các "thư mời", ông D. còn chế tạo ra các tờ "cáo phó" với nội dung thông báo là chị P. đã chết và các "thư gửi" đề tên người nhận là mẹ đẻ của chị P. với nội dung lăng mạ bà. Tất cả các "thư mời", "thư gửi", "cáo phó" này, ngoài việc dán ở gia đình cha mẹ đẻ chị P., ông ta còn đem rải ở nhiều địa điểm nơi chị P. từng sinh sống và gửi đến trường học nơi con gái chị P. đang theo học.

Ngón đòn hành hạ quái đản của người chồng đã khiến hai mẹ con chị P. suy sụp, phải bỏ nhà ra đi đến ở tại ngôi nhà tạm lánh của Hội phụ nữ. Dù không bị đánh đập tàn nhẫn nhưng các chuyên gia tư vấn cho rằng, đòn bạo hành mà chị P. phải gánh chịu thậm chí còn nặng nề hơn rất nhiều. Bởi, nếu những vết thương về thể xác, thời gian và nững can thiệp về y tế hoàn toàn có thể chữa lành được còn những vết thương tinh thần thì không...

Ví dụ 4: Còn đây là một ngón đòn bạo hành khác mà câu chuyện của nạn nhân này đã từng được đưa ra bàn luận tại nhiều cuộc hội thảo về bạo hành gia đình. Đó là câu chuyện về một người chồng đã tỏ ra rất bình tĩnh khi tận mắt chứng kiến vợ ngoại tình. Không đánh mắng vợ, cũng không gây chiến với tình địch bằng vũ khí, anh ta chỉ nhẹ nhàng xin tình địch 10 nghìn đồng và đón vợ về nhà. Cuộc sống gia đình tưởng như vẫn yên ổn. Chỉ khác là trong tất cả các bữa ăn của gia đình, tờ tiền 10 nghìn luôn luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Bất kể khi nào, các con cần tiền để đóng học, để mua sách vở... thì anh đều chỉ vào tờ tiền này và nói: "Tiền này do mẹ kiếm được đấy, các con cứ lấy mà chi dùng, rồi mẹ sẽ tiếp tục kiếm thêm". Cứ như thế, nhiều tháng sau khi bị chồng tra tấn bằng ngón đòn êm ái này, người vợ đã tự vẫn...

Ví dụ 5: Nhưng kinh hoàng và đen tối nhất là âm mưu của người chồng trong một vụ án hết sức thương tâm xảy ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc. Có anh chàng người dân tộc may mắn cưới được một cô vợ khá xinh đẹp. Một lần, phải đi xa nhà, sợ vợ ngoại tình, anh ta đã bí mật gài một quả lựu đạn dưới dát giường với toan tính tàn ác, nếu vợ mà rước giai về ngủ chung, trọng lượng tăng gấp đôi, dát giường sẽ trĩu xuống và cọ vào kíp nổ làm cho lựu đạn nổ, kết liễu đời cả đôi gian phu dâm phụ. Nhưng, khốn thay, thấy chồng đi vắng, chị vợ đã băng qua một quả đồi, đón mẹ chồng đưa bà về ngủ chung cho bớt cô quạnh. Và, lựu đạn nổ khi bà mẹ chồng và cô con dâu vừa đặt lưng xuống chiếc giường oan nghiệt đó...

(2) Kỹ năng về vận dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ hoà giải

* Câu chuyện thứ nhất: Nhà anh Thịnh sắp đến ngày giỗ bố, anh Thịnh ra chợ làng mua được một con gà trống tía rất ưng ý. Để đề phòng gà xổng chuồng đi mất, anh chặt lông đuôi, lông cánh rồi cẩn thận nhốt gà vào lồng (bội gà) để ở góc vườn. Ấy thế mà chẳng hiểu sao ngay chiều hôm đó, anh đã thấy con gà ung dung đi lại trong góc sân nhà anh Mạnh. 

Tuy hai nhà là hàng xóm, cũng chưa từng xảy ra điều tiếng gì nhưng xưa nay anh Thịnh ít qua lại nhà anh Mạnh. Biết tính anh Mạnh ham cờ bạc, lại hay qua lại với những người có tiếng là “cộm cán” trong vùng nên dù có tiếc con gà, anh Thịnh cũng chỉ quát tháo vài câu trong nhà cho đỡ bực.

Nhưng chị Nhung vợ anh Thịnh thì không chịu được. Chị ra ngay đầu ngõ kể với mấy bà hàng xóm chuyện “làng này có kẻ nhẫn tâm ăn của cả người chết”. Rồi câu chuyện “ăn của cả người chết” lan nhanh như điện, đến tối thì cả làng đều biết nhà Mạnh “bất nhân, bất nghĩa”. 

Chưa ai hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao thì tối hôm đó cả làng đã được một phen khiếp vía khi anh Mạnh cởi trần, mình đầy xăm trổ, tay lăm lăm con dao bầu quyết sang nhà anh Thịnh “xin tý tiết”. 

Nhận được tin báo, các hòa giải viên của thôn lập tức có mặt để hỏi rõ sự tình. Thấy ông Thông hòa giải viên đến, anh Mạnh có phần dịu lại vì ông Thông vốn là người có uy tín trong làng. Ông đề nghị hai nhà cùng ngồi lại để hỏi rõ ngọn ngành. Thì ra, do anh Thịnh không chặn kỹ nên con gà trống tía đã lách được ra khỏi lồng, chạy sang sân nhà anh Mạnh kiếm mồi. 

Anh Mạnh tức vì bị vu là ăn trộm gà, “ăn của cả người chết” nên định sang cho anh Thịnh một trận. Còn chị Nhung vì tiếc con gà nên trong lúc “loan tin” với các bà hàng xóm đã nhỡ miệng nói nhiều câu xúc phạm tới nhà anh Mạnh. 

Hiểu ra câu chuyện, ông Thông nhẹ nhàng phân tích cái hơn, cái thiệt, cái lý, cái tình cho chị Nhung, anh Mạnh. Lúc này, chị Nhung mới tiếc giá như mình đừng vội vàng “nhỏ to, buôn chuyện” mà sang ngay nhà anh Mạnh hỏi kỹ ngọn ngành thì mọi chuyện đã không nên nỗi. Nghe chị Nhung xin lỗi, anh Mạnh vui vẻ gọi ngay con trai mang gà sang trả lại anh Thịnh và còn hứa đến ngày giỗ bố anh Thịnh nhất định sẽ sang ăn cỗ. 

Chuyện “bé xé ra to” như con gà đi lạc của nhà anh Thịnh chỉ là một trong vô vàn câu chuyện mà hàng ngày các hòa giải viên ở cơ sở phải miệt mài hóa giải. 

Kinh nghiệm: Trong trường hợp trên, anh Thông là hòa giải viên đã vận dụng Kỹ năng hòa giải (nắm bắt tình hình sự việc, tổ chức đối thoại, giúp hai bên hiểu rõ vấn đề để các bên có thể loại bỏ mâu thuẩn).

(3) Kỹ năng tư vấn pháp luật

 Anh T và chị H vốn là những người hàng xóm liền kề, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Kể từ khi anh T xây lại nhà mình thành một ngôi nhà 3 tầng khang trang, tình cảm giữa hai nhà không còn như cũ nữa. Không rõ nguyên nhân chính xác của việc một bên tường nhà chị H bị nứt, phải sửa chữa lại thì mới đảm bảo an toàn. Chị H cho là tại nhà anh T xây lại nhà, nên nhà chị mới như vậy. Về phía anh T thì kiên quyết không nhận phần lỗi về mình. Nhận được thông tin, tổ hòa giải ở cơ sở sau khi tìm hiểu vụ việc, đã chủ động đến hỏi chuyện cùng hai gia đình anh T và chị H.

Buổi đầu tiên, hòa giải viên đã mời tổ trưởng khu phố, hai gia đình anh T và chị H cùng hai gia đình hàng xóm của họ. Cuộc nói chuyện diễn ra tại nhà chị H. Tổ hòa giải để cho hai gia đình anh T và chị H phát biểu quan điểm trước. Anh T khăng khăng cho rằng nhà mình không có lỗi, tường nhà chị H nứt là do nhà ấy xây không vững. Còn chị H chứng minh từ khi anh T xây nhà thì nhà mình mới xảy ra hiện tượng nứt tường. Bằng tình cảm xóm giềng, tổ hòa giải đã khuyên nhủ hai gia đình nên thông cảm cho nhau và anh T đồng ý bồi thường cho chị H tu sửa nhà, thống nhất sau 01 tuần sẽ trả lời chính thức cho Tổ hòa giải. Biên bản cuộc họp đã được lập.

Buổi thứ hai, anh T thay đổi ý kiến, không bồi thường cho chị H nữa vì theo người họ hàng làm địa chính của anh T thì anh T không phải bồi thường. Chị H không đồng ý, hai bên đã có lời nói xúc phạm nhau. Anh T nhất quyết mang vụ việc ra tòa án giải quyết. Tổ hòa giải đề ra phương án: Để hai bên suy nghĩ, thương lượng 01 tuần, nếu không được thì đưa vụ việc ra tòa án giải quyết.

Buổi thứ ba, anh T kiên quyết không thay đổi ý kiến. Tổ hòa giải thuyết phục nhưng không thành, hướng dẫn hai bên làm thủ tục để khởi kiện đến tòa án.

Kinh nghiệm:

Về phương thức hòa giải: Tổ hòa giải mới chỉ dùng lý lẽ, chưa áp dụng quy định pháp luật để dẫn chứng, cụ thể là Điều 267 về “Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng” và Điều 268 “Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề” của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Mời thêm thành phần tham gia hòa giải: Tổ hòa giải có thể tìm hiểu nhân thân của người họ hàng làm địa chính của anh T hoặc cán bộ làm công tác địa chính, xây dựng, mời họ tham gia hòa giải, giải thích rõ ràng quy tắc xây dựng và những ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Qua đó, làm rõ mối quan hệ nhân quả trong việc anh T xây nhà 3 tầng và sự nứt tường của nhà chị H. Có như vậy mới thuyết phục được anh T.

Như vậy, với việc vận dụng quy định pháp luật về trách nhiệm trong xây dựng công trình liền kề và mời người có chuyên môn, uy tín tham gia hòa giải nhằm giải thích các vấn đề liên quan một cách chi tiết thì công tác hòa giải sẽ hiệu quả hơn.

(4) Kỹ năng yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc

Để đưa ra lời khuyên (tư vấn) chính xác, đúng pháp luật thì hòa giải viên phải đề nghị đối tượng cung cấp đầy đủ các tài liệu (nếu có) phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp.

Phần lớn các vụ việc tranh chấp thường có các tài liệu như văn bản, thư từ giao dịch...  liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ, tài liệu này là những chứng cứ pháp lý thể hiện nội dung, bản chất của vụ việc hoặc phản ánh diễn biến và quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, có những vụ việc đối tượng chỉ trình bày vụ việc một cách chung chung, chưa muốn cung cấp cho hòa giải viên những văn bản, chứng cứ mà họ cho rằng không có lợi cho mình. Vì vậy, hòa giải viên cần thuyết phục để họ cung cấp đầy đủ. Nếu các bên tranh chấp không cung cấp những tài liệu này thì việc hòa giải khó chính xác và đúng pháp luật.

Sau khi đối tượng đã cung cấp đầy đủ văn bản, tài liệu liên quan, hòa giải viên phải đọc, nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu đó. Trong khi đọc có thể hình thành luôn giải pháp hoà giải trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của vấn đề đưa ra. Đối với những tài liệu mà hòa giải viên không hiểu, không đọc được hoặc có nghi ngờ về tính chân thực của nó thì cần hỏi lại đối tượng để khẳng định ngay. Trong mọi trường hợp, khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho đối tượng thì hòa giải viên không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.

(5) Kỹ năng tra cứu tài liệu tham khảo (Cách tìm văn bản, điều luật áp dụng)

Để đưa ra lời tư vấn pháp luật chính xác, việc tra cứu tài liệu pháp luật trong quá trình hòa giải là điều kiện bắt buộc bởi vì để khẳng định với các bên tranh chấp rằng hòa giải viên đang thực hiện hòa giải theo pháp luật, trên cơ sở pháp luật chứ không theo cảm tính chủ quan, duy ý chí của mình. Ngoài ra, việc tra cứu tài liệu pháp luật có liên quan đến vụ việc hòa giải sẽ giúp hòa giải viên kiểm tra tính chính xác những tư duy và khẳng định chính thức những lời tư vấn của mình là đúng pháp luật vì trong thực tiễn, không phải bao giờ hòa giải viên cũng có thể nhớ chính xác tất cả các quy định thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nếu thấy cần thiết hoặc các bên yêu cầu, thì hòa giải viên có thể cung cấp cho các bên bản sao văn bản, tài liệu đó cùng với lời tư vấn mà mình đưa ra trong trường hợp không tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó thì hòa giải viên có thể chưa đưa ra lời khuyên ngay mà hẹn đối tượng vào một dịp khác để khẳng định lại tính hợp pháp của văn bản pháp luật cần áp dụng.

Trường hợp vụ việc hòa giải có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà hòa giải viên chưa hiểu sâu, thì nên gặp các nhà chuyên môn hay đồng nghiệp khác mà am hiếu sâu về lĩnh vực pháp luật đó để tham khảo ý kiến trước khi đưa ra lời tư vấn, tránh tình trạng hòa giải viên chưa nắm vững pháp luật mà vẫn đưa ra lời tư vấn, giải đáp pháp luật dẫn đến việc hòa giải không chính xác, không đúng pháp luật, trái với nguyên tắc hòa giải, gây hậu quả cho các bên tranh chấp.

Kinh nghiệm: Đối với các tranh chấp thông thường, đó là Bộ luật Dân sự; đất đai có Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn; Hành chính là Luật Xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định xử phạt các lĩnh vực; hình sự Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.

(6) Kỹ năng xem xét, xác minh vụ việc

Việc xem xét, xác minh vụ việc trong hòa giải ở cơ sở chỉ áp dụng đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật hoặc đã được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân giúp đỡ giải quyết mà các bên vẫn không thỏa thuận được với nhau trong cách giải quyết tranh chấp. Việc xem xét, xác minh vụ việc chỉ được tiến hành sau khi đã nghe cả hai bên trình bày, xem xét các giấy tờ, tài liệu các bên cung cấp, hòa giải viên thấy chưa đủ cơ sở để tư vấn, đưa ra những giải pháp, cần phải tiến hành xem xét, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và những người có liên quan để tìm hiểu rõ bản chất vụ việc, tránh vội vàng đưa ra những kết luận phiến diện, chủ quan.

Quá trình xem xét, xác minh vụ việc đòi hỏi hòa giải viên phải thực sự khách quan, vô tư, nhất là khi tiếp xúc với những người có lợi ích liên quan trong vụ việc tranh chấp hoặc thân quen với một bên tranh chấp. Thông thường, những người có lợi ích liên quan đến vụ việc hoặc thân quen luôn bảo vệ việc có liên quan đã làm, nên chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho bên tranh chấp mà họ có liên quan. Vì vậy, hòa giải viên cần khéo léo đề nghị những người có liên quan cung cấp những thông tin, tài liệu chính xác, trung thực. Việc xem xét, xác minh nên lập thành biên bản để làm căn cứ giải thích, thuyết phục các bên tự nguyện hòa giải.

(7) Kỹ năng giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp (Kỹ năng giao tiếp của hòa giải viên)

Giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện thỏa thuận, giải quyết tranh chấp là nghệ thuật hòa giải, đòi hỏi hòa giải viên không chỉ có kiến thức pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tranh chấp, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ hòa giải, có uy tín, phẩm chất đạo đức, có tâm và kinh nghiệm cuộc sống mà còn có khả năng vận dụng pháp luật và đạo đức xã hội để giải thích, thuyết phục các bên đi đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp.

- Tỏ ra thông cảm và tôn trọng đối tượng: khi phân tích, giải thích cho các bên biết hành vi của họ là đúng hay sai, hòa giải viên cần phải xây dựng không khí gần gũi và tin tưởng, cảm thông và tôn trọng đối tượng, có thái độ ân cần, chia sẻ, nhiệt tình, cần phải làm cho không khí nói chuyện được vui vẻ, chan hòa. Như vậy, đối tượng sẽ lắng nghe ý kiến thuyết phục của hòa giải viên. Khi thuyết phục đối tượng mà nói được những suy nghĩ băn khoăn của họ thì dễ đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, mọi lý lẽ, thuyết phục của hòa giải viên phải xuất phát từ lập trường của các bên tranh chấp mà suy nghĩ và đặt vấn đề, đưa ra giải pháp tôi ưu cho các bên tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình.

- Khơi gợi cho các bên tranh chấp những tình cảm tốt đẹp vốn có giữa họ như tình cảm gia đình, tình cảm xóm giêng, bạn bè để họ dễ thông cảm cho nhau.

- Đưa ra những chứng cứ, ví dụ cụ thể để minh chứng cho việc phân tích, lập luận của hòa giải viên.

Kiên trì, thuyết phục, không nên nôn nóng: hòa giải viên cần suy nghĩ chín chắn, điều gì nên nói, điều gì không nên nói, ngoài ra còn phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết từng bước, nhất là đối vời những người có thái độ bảo thủ hoặc bất hợp tác.

Mục tiêu đặt ra đối với kỹ năng hòa giải là những lời khuyên thuyết phục và hướng dẫn của hòa giải viên phải được các bên chấp nhận, đồng thuận nghe theo và làm theo bằng việc các bên tự định đoạt giải quyết dứt điểm tranh chấp, lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên một cách tốt nhất.

Làm rõ những mặt lợi và bất lợi nếu để vụ việc mâu thuẩn tiến xa hơn.

Tình huống: Có cặp vợ chồng đã đông đủ cháu nội cháu ngoại nhưng chồng hay say xỉn nên chồng đánh vợ như cơm bữa. Hòa giải viên phải đến tận nhà để nói chuyện với ông chồng, lúc đến thì bát đũa, nồi niêu đang vứt loẻng xoẻng ngoài sân vì ông ta vừa say rượu và đánh vợ xong. Biết tình thế không thể ngồi nói chuyện phân bua khúc mắc giữa hai vợ chồng này, hòa giải viên đã đưa pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ra để phân tích mức độ vi phạm nặng nhẹ. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ phân tích gãy gọn, ông chồng đã nhận lỗi và hứa sẽ không đánh vợ nữa.

Kết luận: Những kỹ năng trên đây cần phải rèn luyện và đòi hỏi hòa giải viên phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức bằng nhiều hình thức.

          B. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ

I. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1. Khái niệm, những trường hợp thừa kế theo pháp luật, người thừa kế theo pháp luật

- Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: Không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

(Trong quá trình xây dựng dự thảo, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm vào hàng thừa kế này đối tượng là con dâu, con rể vì đây là những người có đóng góp trực tiếp vào cuộc sống của gia đình, đặc biệt là con dâu. Tuy nhiên, do còn những bất cập (chủ yếu các vấn đề nảy sinh gây chia rẻ trong gia đình) nên luật không đưa vào).

+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

- Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

2. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt

- Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định.

- Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về thừa kế thế vị, thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

- Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác: Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Ông A và bà B là vợ chồng. ông bà có 2 người con: Con trai là C và con gái là D. Anh C kết hôn với chị Đ và sống cùng ông bà AB trên mảnh đất của ông bà rộng 360m2. Chị C đi làm ăn xa và lấy chồng ở tỉnh khác. Năm 1973 ông A mất. Bà B ủy quyền cho con trai là ông C đứng tên trên sổ địa chính để sử dụng mảnh đất này từ năm 1983 và cũng đồng ý cho ông C, chị D (con gái ông bà) không có ý kiến gì. Vợ chồng ông CĐ xây dựng nhà cửa gồm một ngôi nhà hai tầng để ở. Thời gian gần đây, ông C tiến hành làm sổ đỏ mang tên ông. Trong quá trình làm thì bà D ở xa về không đồng ý và đòi chia đất.

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Do không nêu rõ mảnh đất này có trước khi kết hôn hay sau khi kết hôn, nên có 02 trường hợp: Mảnh đất này thuộc tài sản riêng của ông A hoặc mảnh đất thuộc tài sản chung của vợ chồng ông A bà B.

Trường hợp 1:

Nếu mảnh đất được xác định là tài sản riêng của ông A thì toàn bộ diện tích đất được xác định là khối di sản thừa kế của ông A để lại. Do ông A không để lại di chúc nên khối di sản trên được chia theo pháp luật, tức là chia theo hàng thừa kế. Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hàng thừa kế như sau (quy định về hàng thừa kế trong BLDS 2005 giống BLDS 2015):

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Theo quy định trên, bà B, ông C, bà D thuộc hàng thừa kế thứ nhất, do vậy sẽ được hưởng khối di sản bằng nhau, nghĩa là mỗi người được hưởng: 360m2/3 = 120m2.

Ông C được nhận: 120m2 (diện tích đất ông được thừa kế từ cha) + 120m2 (đất bà B nhận thừa kế từ ông A và tặng cho ông C) = 240m2.

Trường hợp thứ 2:

Nếu mảnh đất là tài sản chung của ông A bà B thì di sản ông A để lại chỉ là ½ mảnh đất, ½ còn lại thuộc quyền sử dụng của bà B. Theo đó, nếu chia theo pháp luật, phần di sản mà mỗi người được hưởng từ ông A là: (360/2)/3 = 60m2.

Trong trường hợp này, diện tích đất ông C có quyền sử dụng là 60m2 (thừa kế từ cha) + 60m2 (bà B thừa kế của ông A và tặng cho ông C) + 180m2 (1/2 mảnh đất thuộc quyền sử dụng của bà B trong khối tài sản chung và cho ông C) = 300m2.

Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng ông A mất năm 1973, theo BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó). 

II. THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1. Khái niệm di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

2. Người lập di chúc

Người thành niên có đủ điều kiện: Minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép, có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Người lập di chúc có quyền sau đây:

+ Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

+ Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

+ Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

3. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

a) Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp lập di chúc bằng đánh máy (trước đây chỉ có có viết tay), cụ thể: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

 Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. So với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 đã quy định toàn diện, đầy đủ hơn về trường hợp “người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

- Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực: Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc. Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

+ Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

+ Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực, cụ thể: Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp “di chúc của người đang bị tạm giữ”.

b) Di chúc miệng

Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

4. Di chúc hợp pháp

Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện nêu trên.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

5. Nội dung của di chúc

Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

6. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc; gửi giữ di chúc; di chúc bị thất lạc, hư hại

Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về công chứng. Người giữ bản di chúc có nghĩa vụ: Giữ bí mật nội dung di chúc; giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc; giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp: Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

7. Hiệu lực của di chúc

Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.

8. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.

 Quy định nêu trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định.

9. Di sản dùng vào việc thờ cúng

Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

10. Di tặng

Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm điều kiện “người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế’.

Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

11. Công bố di chúc và giải thích nội dung di chúc

Trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc. Trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.

Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.

Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực. So với Bộ luật năm 2005, Bộ luật năm 2015 sửa đổi quy định về việc giải quyết khi không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong khi Bộ luật năm 2005 quy định: “Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật”.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THỪA KẾ

Ví dụ: Hai cha con ông A và ông B chở nhau đi trên đường thì bị tai nạn giao thông qua đời cùng một lúc. Việc thừa kế của cha và con được hiểu như thế nào? Người con có được thừa kế của người cha không và ngược lại?.

Nếu ông B (người con) có 01 con trai nhỏ. Cháu trai này có được thừa kế tài sản từ người ông không?

1. Người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm; từ chối nhận di sản; người không được quyền hưởng di sản; tài sản không có người nhận thừa kế

a) Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm

Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định.

Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

b) Từ chối nhận di sản

Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

 Bộ luật năm 2015 nêu rõ: Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến (trước đây chỉ yêu cầu thông báo) người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

c) Người không được quyền hưởng di sản

Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Những người trên đây vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

d) Tài sản không có người nhận thừa kế

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.

2. Quyền thừa kế; thời điểm, địa điểm mở thừa kế và di sản

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bổ sung quy định mới: Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

 Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định theo quy định.

Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

3. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

4. Người quản lý di sản

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định nêu trên thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Người quản lý di sản (không phải là cơ quan nhà nước) có nghĩa vụ sau đây:

+ Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

+ Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có nghĩa vụ sau đây:

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

+ Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Bên cạnh các nghĩa vu, người quản lý di sản có các quyền sau đây:

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra; cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý  có quyền sau đây:

+ Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có quyền sau đây:

+ Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

5. Thời hiệu thừa kế

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Quy định gặp vướng mắc khi thực hiện trên thực tế vì thời hiệu khởi kiện 10 năm là quá ngắn để thực hiện quyền khởi kiện. Do đó, quyền lợi của người thừa kế tài sản không được pháp luật bảo vệ. Để được hưởng di sản thừa kế, không ít đương sự đã có những hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội. Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định cụ thể phương án xử lý những di sản thừa kế khi hết thời hiệu 10 năm nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý cũng như số phận thực tế của những di sản này.

Từ bất cập trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra quy định mới về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Cụ thể: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.

+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định trên đây.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

IV. THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

1. Họp mặt những người thừa kế

Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây: Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; cách thức phân chia di sản. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

2. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Bộ Luật năm 2015 sửa đổi về thứ tự ưu tiên thanh toán đối với trường hợp “Chi phí cho việc bảo quản di sản”. Nội dung này được Bộ luật năm 2005 xếp vị trí thứ 9, Bộ luật năm 2015 xếp vị trí thứ 3; sửa đổi, bổ sung chi phí “Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước” thành “Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước”.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

(1) Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

(2) Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

(3) Chi phí cho việc bảo quản di sản.

(4) Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

(5) Tiền công lao động.

(6) Tiền bồi thường thiệt hại.

(7) Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

(8) Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

(9) Tiền phạt.

(10) Các chi phí khác.

3. Phân chia di sản

a) Phân chia di sản theo di chúc

Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

b) Phân chia di sản theo pháp luật

Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

c) Hạn chế phân chia di sản

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp được gia hạn và không hạn chế đối với trường hợp đã kết hôn, cụ thể: Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm (Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế).

d) Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

 

 

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Ngày cập nhật 11/09/2020

MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

 

Ở một nước mà quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” được coi trọng như ở nước ta thì hoạt động hòa giải ở cơ sở sẽ luôn là sợi dây vô hình, bền chặt, góp phần kết nối và giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc. 

I. Bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở

Hoạt động hòa giải cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định chủ trương, phát huy tinh thần dân chủ mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Nhà nước, coi trọng sự đồng thuận của nhân dân, tăng cường đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra các cơ quan Nhà nước giải quyết. Để hoạt động hòa giải trở về đúng tính chất là hoạt động tự quản của nhân dân, do nhân dân tự quyết định trong đó vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở là yếu tố quan trọng, góp phần dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,

Như vậy, không hành chính hóa hoạt động hòa giải ở cơ sở. Hoạt động này phát huy được tính tự quản của cộng đồng dân cư nhưng đồng thời hạn chế được sự tham gia của Nhà nước đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở, đồng thời nâng cao vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với công tác này. Bản chất của hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện của người dân, do người dân tự thực hiện, Nhà nước chỉ hỗ trợ để người dân phát huy ý thức, trách nhiệm của mình trong giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trên địa bàn ngay từ khi mới phát sinh.

II. Các văn bản pháp luật

+ Luật Hòa giải ở cơ sở số 35/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

+ Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 4 năm 2014.

+ Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ngày 30 tháng 7 năm 2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết số 14/2015/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh và Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14 tháng 01 năm 2016 quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

III. Phân biệt hòa giải ở cơ sở với hòa giải khác

Hòa giải ở cơ sở khác với việc hòa giải trong tố tụng và hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai.

1. Theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở, Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định.

Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố).

Các bên là cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật mà theo quy định được hòa giải ở cơ sở.

2. Hòa giải trong tố tụng dân sự được áp dụng đối với các trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình. Trong tố tụng, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc. Hiệu lực của các thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với các bên liên quan. Không được hòa giải trong một số trường hợp: Yêu cầu bồi thường gây thiệt hại tài sản của Nhà nước; những vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự trái pháp luật; bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Thành phần hòa giải là Thẩm phán, Thư ký, đương sự. Việc hòa giải phải được lập biên bản hòa giải thành. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, các bên không thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Thỏa thuận có hiệu lực ngay. Thỏa thuận có thể bị kháng nghị theo tủ tục Giám đốc thẩm nếu có căn cứ thỏa thuận bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật.

(Giám đốc thẩm là xét lại quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng (về tố tụng, về áp dụng pháp luật, không phù hợp tình tiết khách quan của vụ án).

3. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một khâu bắt buộc trước khi tiếp tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2014, quy định hòa giải tranh chấp đất đai tại Điều 202 và 203:

Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

(1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

(2) Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây: Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền:

 Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

4. Quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án

Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, tại Chương XXXIII của Bộ luật này quy định “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”. Theo đó, Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự, tức là sau khi có quyết định công nhận của Tòa án, các bên phải tự nguyện thi hành thỏa thuận của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành của Tòa án; hết thời gian này, bên phải thực hiện nghĩa vụ có điều kiện thực hiện nghĩa vụ mà không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện, bên có quyền được nộp đơn yêu cầu thi hành cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Để hướng dẫn cho các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở (nâng cao hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành ở cơ sở), ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Công văn số 3774/UBND-TP ngày 07/6/2017 để triển khai thực hiện.

Theo đó, để được Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;

- Vụ, việc được hòa giải tuân thủ đúng quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở;

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;

- Có văn bản hòa giải thành. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba;

- Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.

Thời hạn gửi đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là 06 tháng, kể từ ngày lập văn bản hòa giải thành. Cơ quan tiếp nhận đơn yêu cầu là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, làm việc.

- Hiệu lực của Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án:

+ Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

+ Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

+ Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở.

Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

Việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc không gửi đơn yêu cầu.

IV. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Thủ bầu hòa giải viên, có thể nói khá “rườm rà”, phức tạp, cụ thể có 03 bước:

- Bước 1: Chuẩn bị bầu hòa giải viên (Trong thời hạn 20 ngày, trước ngày dự kiến bầu hòa giải viên): Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận dự kiến những người được bầu làm hòa giải viên; thống nhất thời gian bầu hòa giải viên; quyết định hình thức bầu hòa giải viên; quyết định danh sách Tổ bầu hòa giải viên; thông báo công khai danh sách bầu hòa giải viên.

- Bước 2: Tổ chức bầu hòa giải viên: Bầu hòa giải viên bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp được tiến hành khi có trên 50% đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố trở lên tham dự; hoặc bầu hòa giải viên bằng hình thức phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn, Tổ dân phố.

- Bước 3: Kết quả bầu hòa giải viên: Trưởng ban công tác Mặt trận lập hồ sơ về kết quả bầu hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để xem xét, quyết định.

 

Trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

a) Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. Nguyên tắc thể hiện qua việc hòa giải chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của các bên; tôn trọng sự thỏa thuận; trong quá trình thực hiện thỏa thuận cũng không được áp đặt, cưỡng chế.

b) Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi.

c) Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp cần phải thông báo để có biện pháp phòng ngừa khi mâu thuẩn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng; để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự.

Phân tích về bí mật thông tin đời tư:

Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình:

1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Phạm vi và nội hàm đặc trưng của đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình không được quy định rõ ràng dẫn tới có nhiều vướng mắc trên thực tiễn.

Ví dụ như vướng mắc trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học sinh có phải bí mật cá nhân, đời sống riêng tư’’ hay không. Vấn đề này thời gian vừa qua được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường trung học phổ thông và cơ quan báo chí rất quan tâm khi công bố công khai điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông của thí sinh. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em, tại Điều 33 quy định “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em”. Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên 16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không. Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí sinh trên 16 tuổi.

- Việc xác định các hành vi nào là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc không xâm phạm còn chưa có những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể mà chủ yếu nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Qua rà soát, nghiên cứu những biểu hiện sau đây là hành vi xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư : (1) Hành vi thu thập, công bố các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân không được sự đồng ý của người đó hoặc của nhân thân cá nhân trong trường hợp cá nhân chết, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật ; (2) Hành vi xâm phạm bất hợp pháp chỗ ở của cá nhân ; (3) Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân. Tuy nhiên ở nước ta và ngay cả một số quốc gia tiến bộ, việc xác định hành vi xâm phạm không hề dễ dàng và thường gây nên sự tranh cãi của công chúng và khi xét xử vụ việc cụ thể nào đó thường do thẩm phán quyết định dựa trên kinh nghiệm và tương tự pháp luật. Thời gian vừa qua có một số vụ việc còn có nhiều quan điểm tranh luận xoay quanh như:

Các thông tin liên quan đến tổng tài sản của cá nhân và hành vi công khai thông tin có bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không còn có tranh cãi. Báo Đại Đoàn Kết có đưa tin về ‘‘Những người giàu nhất Việt Nam’’. Có quan điểm cho rằng pháp luật không buộc cá nhân phải công khai tài sản của mình trừ khi được sự đồng ý của họ, ngoại trừ một số trường hợp cá nhân phải công khai tài sản theo quy định của pháp luật hoặc buộc chứng minh nguồn gốc tài chính; quan điểm khác cho rằng tổng tài sản của những người giàu nhất Việt Nam đã được thể hiện công khai thông qua những thông tin dữ liệu được công khai ví dụ như tổng số cổ phiếu niêm yết tại sàn chứng khoán, hay tổng số bất động sản góp vốn vào công ty… do đó tổng tài sản của những người này được phép công khai mà không cần xin phép họ.

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đặc biệt là hình ảnh liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng được đưa ra tranh luận bởi lẽ sự phân định giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền tự do báo chí còn chưa có quy định rõ ràng. Hoặc thậm chí việc đăng tải hình ảnh của cá nhân phạm tội lên trên báo chí hoặc mạng xã hội cũng là một vấn đề còn tranh cãi.

Ngày 20/7/2017, Bộ Tư pháp tổ chức họp báo định kỳ để thông tin về công tác tư pháp quý II/2017. Người phát ngôn Bộ Tư pháp, Chánh Văn phòng Bộ Đỗ Đức Hiển chủ trì buổi họp báo cùng sự tham dự của đại diện lãnh đạo nhiều đơn vị liên quan thuộc Bộ để trả lời hàng loạt vấn đề mà dư luận quan tâm trong thời gian qua. Về vấn đề liên quan giữa bảo vệ bí mật đời tư với công khai điểm thi của thí sinh thi tốt nghiệp THPT quốc gia, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế Nguyễn Hồng Hải quan niệm, Bộ luật Dân sự năm 2015 tuy có quy định nguyên tắc về bảo vệ bí mật đời sống riêng tư nhưng thế nào là đời sống riêng tư thì Bộ luật không quy định mà việc quy định cụ thể sẽ do các luật chuyên ngành hướng dẫn. Đối với công bố điểm thi, theo Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định hướng dẫn Luật, với học sinh dưới 16 tuổi thì thông tin về kết quả học tập là thông tin đời sống riêng tư và thông tin này được bảo vệ theo nguyên tắc thông tin cá nhân. Học sinh từ 16 tuổi trở lên thì hiện không có quy định cụ thể nào nói đây là thông tin đời sống riêng tư cần bảo vệ. Việc công khai điểm thi của học sinh từ 16 – 18 tuổi có bị cấm hay không thì phải có điều luật quy định cụ thể. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm quốc tế, ông Hải nhận thấy các nước thường xây dựng 1 trang web điện tử trực tuyến, những cá nhân cần biết điểm sẽ tra bằng số báo danh, số ID của mình. “Để hạn chế những rủi ro không cần thiết đối với lợi ích nhân thân, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kịp thời nghiên cứu hoàn thiện vấn đề này”.

Ở nước ngoài, nhiều nước chưa có khái niệm rõ ràng về vấn đề này và nhiều nước khi xét xử áp dụng án lệ. Vụ việc diễn ra tại thành phố Dortmund Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến việc xác định hành vi có xâm phạm đời sống riêng tư của cá nhân như sau: ông Robert xây một khu xông hơi sau vườn, mỗi lần tới đây, ông quyết định không mặc quần áo mà khỏa thân đi vào phòng xông hơi. Hàng xóm nhiều lần chứng kiến hành động này và họ cảm thấy không hài lòng và họ quyết định khởi kiện lên Tòa án thành phố Dortmund vì “không thể chịu nổi hình ảnh khỏa thân” của Robert. Thẩm phán nói rằng mỗi tuần ông Robert sử dụng phòng xông hơi 2 lần và việc khỏa thân theo tần suất này là “chấp nhận được”. Thẩm phán nói rằng không hề thấy dấu hiệu vi phạm hình sự trong trường hợp này và ông Robert hoàn toàn có quyền được khỏa thân đi lại tự do trong vườn nhà mình. Tuy nhiên hàng xóm nói Robert thường xuyên say xỉn, không chịu xây toilet và thường đi vệ sinh vào những bụi việt quất ông trồng. Thẩm phán đáp lời rằng luật pháp không cấm việc một người đi vệ sinh trong vườn nhà của ông ta. Vụ việc kết thúc và luật sư của ông Hans nói rằng “đây là một trải nghiệm đau buồn”.
        Vụ việc tại thành phố Ottawa vào tháng 10/2017, một viên chức thành phố có tên Dunn bị Thành phố Ottawa yêu cầu tiết lộ tất cả các email được gửi hoặc nhận bởi Rick O'Connor - một Luật Sư Thành Phố, bởi lẽ email này do Thành phố cấp cho Dunn để làm việc, và có dấu hiệu nghi ngờ Dunn đã tiết lộ một số thông tin bí mật của Thành phố. Qua nhiều lần tranh luận tại Tòa, thẩm phán đã phán quyết rằng khó phân biệt giữa "thông tin cá nhân và tài liệu của nhân viên được lưu trữ dưới hình thức giấy trong tủ hồ sơ của chính phủ và bàn làm việc và các hồ sơ lưu trữ dưới dạng điện tử trong hệ thống máy tính do chính phủ sở hữu và nội dung liên lạc qua email giữa O'Connor và Dunn không liên quan gì đến các vấn đề kinh doanh của thành phố. Do đó, việc tiết lộ nội dung trong email của Dunn sẽ vi phạm quyền riêng tư của O'Connor và Dunn".

Bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín…

Tình huống:

Thời gian gần đây, chị B nhận thấy những biểu hiện khác thường ở anh A – chồng chị B. Ở nhà, anh thường lạnh nhạt, ít nói, hay cáu gắt với vợ con hơn trước. Chi B sinh nghi chồng mình có người phụ nữ khác, hai vợ chồng thường xuyên to tiếng với nhau. Chi B ôm con về nhà mẹ đẻ.

Giả sử có 02 trường hợp:

TH1: Sau khi gặp gỡ với anh A, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A. Do trong một lần tụ tập bạn bè, không làm chủ được hành vi của mình, anh đã có quan hệ với một tiếp viên, sau đó biết được cô gái này bị HIV. Từ đó, vừa lo lắng, vừa ân hận, không biết mình đã bị lây nhiễm chưa, và vợ mình có bị không. Trường hợp này hòa giải viên phải khuyên giải anh A đi xét nghiệm và không được tiết lộ về thông tin này vì nó ảnh hưởng nghiêm trọng tói cuộc sống của anh A và những người xung quanh.

TH2: Sau khi tìm hiểu, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A là do có người phụ nữ khác, thường xuyên qua lại với người này. Trường hợp này anh A vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

d) Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

đ) Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Quy định về bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở là nội dung mới so với quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở trước đây, phù hợp với yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ và pháp luật về bình đẳng giới. Bình đẳng giới thể hiện trong tổ chức và trong hoạt động. Trong tổ chức, phải có hòa giải viên nữ tham gia tổ hòa giải; trong hoạt động hòa giải các vụ việc, phải xét đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em.

e) Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.

V. Kinh phí và chế độ của Tổ hòa giải, hòa giải viên

1. Nguồn kinh phí hỗ trợ

Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở; chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc và hỗ trợ các chi phí cần thiết khác cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.

2. Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên

Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên bao gồm:

- Chi hỗ trợ cho hòa giải viên bao gồm: Chi hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc; chi hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải;

- Chi hỗ trợ tổ hòa giải để mua tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ hoạt động của tổ hòa giải; tổ chức các cuộc họp, sơ kết, tổng kết hoạt động của tổ hòa giải;

3. Mức chi hỗ trợ

Hiện nay, Thông tư hướng dẫn về nội dung chi và mức chi trong công tác hòa giải đang được Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính phối hợp ban hành. Do đó, văn bản áp dụng ở địa phương hiện nay vẫn là Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 về việc quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.

Một số mức chi cụ thể như sau:

- Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải):

+ Hòa giải thành: 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải;

+ Hòa giải không thành: 150.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải.

- Hỗ trợ chi phí mai táng cho người tổ chức mai táng hòa giải viên gặp tai nạn hoặc rủi ro bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở: Mức chi bằng 05 tháng lương cơ sở.

- Chi hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải (chi mua văn phòng phẩm, sao chụp tài liệu, nước uống phục vụ các cuộc họp của tổ hòa giải): 100.000 đồng/tổ hòa giải/tháng.

- Chi bồi dưỡng thành viên Ban tổ chức bầu hòa giải viên tham gia họp chuẩn bị cho việc bầu hòa giải viên: 50.000 đồng/người/buổi.

- Chi tiền nước uống cho người tham dự cuộc họp bầu hòa giải viên: 10.000 đồng/người/buổi.

4. Điều kiện hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ, việc của hòa giải viên

- Vụ, việc được tiến hành hòa giải và đã kết thúc theo quy định.

- Hòa giải viên không vi phạm nghĩa vụ của hòa giải viên.

Như vậy, cần lưu ý rằng, một vụ việc dù được hòa giải thành hay không nhưng đáp ứng các điều kiện trên thì được hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ việc.

5. Phương thức và thủ tục hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên

- Việc hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên được thực hiện sau khi vụ, việc hòa giải kết thúc.

- Hồ sơ thanh toán hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên:

Nhìn chung, hồ sơ thanh toán là những chứng từ (giấy tờ, hóa đơn) liên quan chứng minh công việc đã thực hiện theo yêu cầu, bao gồm:

+ Tổ trưởng tổ hòa giải lập hồ sơ đề nghị thanh toán thù lao cho hòa giải viên, bao gồm: Giấy đề nghị thanh toán thù lao của hòa giải viên có ghi rõ họ, tên, địa chỉ của hòa giải viên; tên, địa chỉ tổ hòa giải; số tiền đề nghị thanh toán; nội dung thanh toán (có danh sách các vụ, việc trong trường hợp đề nghị thanh toán thù lao cho nhiều vụ, việc); chữ ký của hòa giải viên; chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải và xuất trình Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để đối chiếu khi cần thiết.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định và trả thù lao cho hòa giải viên thông qua tổ hòa giải; trường hợp quyết định không thanh toán cho hòa giải viên thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Tổ hòa giải trả thù lao cho hòa giải viên theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được thù lao.

6. Các trường hợp hòa giải viên được hưởng hỗ trợ, tạo điều kiện khắc phục hậu quả khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Trường hợp được hỗ trợ

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trong khi đang thực hiện hòa giải.

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trên đường đi và về từ nơi ở đến địa điểm thực hiện hòa giải trên tuyến đường và trong khoảng thời gian hợp lý.

- Các khoản được hỗ trợ

Hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ như sau:

+ Chi phí cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; nếu thu nhập thực tế của hòa giải viên không ổn định hoặc không thể xác định được thì áp dụng cách tính theo thu nhập bình quân hàng ngày của người làm công ăn lương chia theo khu vực thành thị, nông thôn, loại hình kinh tế ngoài nhà nước trong thời gian cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút.

Gia đình của hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ một lần bằng tiền để chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc hòa giải viên trước khi chết; người tổ chức mai táng được hỗ trợ chi phí cho việc mai táng.

7. Thủ tục thực hiện hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Hồ sơ

+ Giấy đề nghị hỗ trợ của hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng có xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc Trưởng ban công tác Mặt trận trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại là tổ trưởng tổ hòa giải. Giấy đề nghị hỗ trợ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người yêu cầu hỗ trợ; lý do yêu cầu hỗ trợ;

+ Biên bản xác nhận tình trạng của hòa giải viên bị tai nạn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra tai nạn hoặc cơ quan công an nơi xảy ra tai nạn (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Giấy ra viện, hóa đơn thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Văn bản, giấy tờ hợp lệ về thu nhập thực tế theo tiền lương, tiền công hằng tháng của người bị tai nạn có xác nhận của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp), bao gồm: Hợp đồng lao động, quyết định nâng lương của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động hoặc bản kê có thu nhập thực tế của hòa giải viên bị tai nạn và các giấy tờ chứng minh thu nhập thực tế hợp pháp khác (nếu có);

+ Giấy chứng tử trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp).

- Hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ  đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã ra quyết định công nhận hòa giải viên.

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện kèm theo hồ sơ đề nghị hỗ trợ.

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, ra quyết định hỗ trợ; trường hợp không hỗ trợ thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Chậm nhất sau 03 ngày làm việc, kể từ ngày ngày nhận được quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc chi tiền hỗ trợ.

VI. Một số kỹ năng hòa giải ở cơ sở

1. Kỹ năng hòa giải là một yếu tố quan trọng trong công tác hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng. Kỹ năng hòa giải tốt sẽ giúp phát huy tốt hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở; ngược lại, có thể làm cho sự việc không chỉ hòa giải không thành mà còn có thể gây nên những hậu quả khó lường.

Câu chuyện thực tế:

Một vụ việc khiến hòa giải viên buồn và “sốc”, đó là chuyện chồng rượu chè thường xuyên đánh đập vợ, dẫn đến, người vợ "tức nước vỡ bờ", không làm chủ được hành vi đã “xuống tay” giết chồng.

Chị Minh là người phụ nữ rất đảm đang, tháo vát. Chị lấy anh Hòa, sinh được được một bé gái thì chị Minh không thể chịu đựng nổi tính tình côn đồ, thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ của ông Hòa. Chị bỏ chồng, đi xã làm ăn. Đứa con chung của hai người ở cùng bố không lâu thì mất.

Ông Hòa đi lấy vợ hai thì sinh thêm được một con gái. Nhưng với bản tính của ông Hòa, dường như khó có người phụ nữ nào chung sống được lâu dài. Thế nên chỉ sau một thời gian ngắn gắn bó, ông Hòa và vợ hai chia tay. Ông Hòa đón chị Minh về “nối lại tình xưa”. Vì vẫn còn tình cảm với ông Hòa nên chị Minh về sống cùng, sau đó sinh được thêm 2 người con.

Là người giỏi thu vén nên kinh tế trong gia đình đa phần do một tay chị Minh tạo dựng. Ông Hòa vốn bê tha rượu chè nên không chỉ không giúp đỡ kinh tế cho vợ mà còn thường xuyên bị “ma men” điều khiển, đánh đập vợ con.

Chị Minh cứ sắm sửa được cái gì, ông lên cơn say là đập nát hết. Những lần mới cãi vã, người trong thôn trong xóm còn tới can thiệp, khuyên giải, Tổ hòa giải cũng vào cuộc nhiều lần nhưng hòa thuận được mấy hôm rồi  vẫn “đâu lại vào đấy” nên không ai còn  thiết tha với chuyện cãi nhau như cơm bữa của gia đình ông Hòa bà Minh nữa.

Chị Thơm là Hòa giải viên vẫn ghé qua để trò chuyện với bà Minh và ông Hòa. Chị đã khuyên giải và mong muốn hai vợ chồng ông Hòa và bà Minh cố gắng làm ăn. Nhất là ông Hòa không còn rượu chè nữa, hãy tu chí làm ăn giúp đỡ bà Minh. Nghe chị Thơm nói, cả hai ông bà đều gật đầu quyết chí. Nhưng lại được mấy hôm chị Thơm lại phải chứng kiến cảnh vợ chồng ông bà cãi vã, xô xát nhau.

Khi “con giun xéo lắm cũng quằn”, trong một lần bị chồng đánh đập, chửi bới rồi đem hết quần áo của mình ra sân đốt, bà Minh đã cầm kéo đâm chồng khiến nạn nhân tử vong.

Hoặc có trường hợp chị ham làm công tác xã hội thường xuyên đi làm về muộn, ít có thời gian chăm sóc gia đình và các con. Anh chồng khó chịu, thường mắng chửi vợ. Chị vợ lại nóng tính, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau ảnh hưởng đến an ninh, trật tự thôn xóm.

Thực tế có rất nhiều các trường hợp phải nhờ đến hòa giải viên, hôn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, các tranh chấp nhỏ... Và thực tế công tác hòa giải ở cơ sở cũng hết sức vất vả. Đây được ví như công việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nhưng có những trường hợp khi hòa giải thì hòa giải viên bị những người trong cuộc chửi bới, dọa đánh, đe dọa... Chế độ thì rất ít, có khi còn không có, nhưng trách nhiệm lại nặng nề và đòi hỏi hòa giải viên phải có các kỹ năng nhất định. 

2. Khái niệm kỹ năng hòa giải

Kỹ năng hòa giải là khả năng của hòa giải viên vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội, bằng sự nêu gương của mình và kinh nghiệm cuộc sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp, mâu thuẩn, nhằm xóa bỏ bất đồng và đạt được thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật ở cơ sở.

3. Một số kỹ năng hoà giải ở cơ sở cần lưu ý

(1) Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội.

Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội là một kỹ năng rất quan trọng, không thể thiếu trong công tác hòa giải ở cơ sở. Bất kỳ một vụ việc hòa giải nào cũng cần viện đến kiến thức pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội.

Từ thực tiễn hòa giải cho thấy, các vụ việc mâu thuẩn xảy ra phổ biến nhất là trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Xã hội càng hiện đại thì dường như chuyện tan vỡ gia đình ngày càng phổ biến hơn. Trước ở làng ở quê hiếm lắm mới thấy có đôi trục trặc dẫn tới bỏ nhau song hiện giờ số vụ đã nhiều hơn. Mỗi năm, có nhiều các vụ hòa giải từ to đến nhỏ: ghen tuông, cãi vã cho tới việc quyết định ly hôn.

Cái khó của những hòa giải viên cơ sở chính là người dân ở nhiều thôn quê, làng xã trình độ dân trí còn thấp, vẫn "trọng nam khinh nữ", người đàn ông quen sống gia trưởng, người phụ nữ luôn luôn chịu nhịn nhục, để người chồng hành hung. Hoặc là người phụ nữ vì quá uất ức, quẫn trí nên đã có những hành động thiếu suy nghĩ....

Để hòa giải các cặp đôi "sứt mẻ" thành công, hòa giải viên phải bàn họp, nghĩ nhiều cách khác nhau.

Các hòa giải viên mong muốn giúp những cặp vợ chồng trong thôn quê của mình hiểu rõ về pháp luật, nhất là pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. Họ chịu nghe lời của các hòa giải viên để sống tốt hơn, đầm ấm hơn. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết hòa giải viên cần báo cáo cư quan chức năng can thiệp sớm vào các vụ việc để không có những hậu quả đau lòng xảy ra.

Ví dụ về hậu quả nếu không can thiệp kịp thời

Ví dụ 1: Qua mai mối, Khánh quen biết vợ tên là Lan Anh, là một cô gái hiền lành, ít nói, đang làm công nhân may. Sau khi lấy nhau, vợ chồng Khánh đã được gia đình nhà vợ cho mượn một ngôi nhà để ở với đầy đủ tiện nghi. Sau đó, Khánh có bồ và vì vậy mà những cuộc cãi vã, xô xát xảy ra thường xuyên. Thậm chí có lúc bồ của Khánh còn nhắn tin vào máy điện thoại di động xui Khánh bỏ vợ và không được có con với vợ. Trong một lần tình cờ, Lan Anh đọc được cái tin nhắn này trong điện thoại của Khánh nên 02 vợ chồng cãi nhau, dẫn đến xô xát và Khánh đã đánh chết vợ.

Ví dụ 2: Hai vợ chồng anh Tuyên làm xe ôm, còn chị Huệ thì buôn bán vặt vãnh, nuôi 02 đứa con. Tiền kiếm được không đáng là bao mà Tuyên thì lại ham mê lô đề. Chị Huệ khuyên bảo mãi không được và cũng vì chuyện đó mà hai vợ chồng cãi vã. Bực tức, Tuyên đã xuống tay giết vợ rồi nói dối hai con là mẹ đã bỏ ba bố con để đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc. Sự thật chỉ được phát hiện cho tới khi những phần máu thịt đớn đau của người mẹ xấu số đó sau nhiều ngày bị dìm xuống hồ sâu đã nổi lên mặt nước và được quần chúng nhân dân phát hiện.

Ví dụ 3: Nếu như đấm, đá, đập... được coi là lối bạo hành truyền thống thì nay, trong thời đại của công nghệ, nhiều kiểu bạo hành quái đản đã nảy sinh. Khi kết hôn với nhau, cả ông D. và chị P. đều đã trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc và mỗi người đều đã có một con riêng. Tưởng sau những bất hạnh, cuộc hôn nhân lần này sẽ mang đến hạnh phúc. Nhưng không, chỉ sau một thời gian không dài thì cuộc sống chung bắt đầu cơm không lành, canh không ngọt.

Không giống như nhiều người phụ nữ khác, chị không phải hứng chịu những trận đòn thừa sống thiếu chết của chồng. Không phải chịu nỗi đau về thể xác nhưng người đàn ông này đã ra những đòn bạo hành về tinh thần rất quái đản để hành hạ chị. Đầu tiên là ông ta thay toàn bộ khóa cửa nhà để mẹ con chị mất chỗ cư trú. Sau đó, ông ta bắt đầu tự chế tạo ra hàng loạt những tờ rơi có tiêu đề là "Thư mời" với nội dung: Chị P. là gái gọi, kèm theo địa chỉ, số điện thoại "để khách làng chơi tiện liên hệ". Cùng với các "thư mời", ông D. còn chế tạo ra các tờ "cáo phó" với nội dung thông báo là chị P. đã chết và các "thư gửi" đề tên người nhận là mẹ đẻ của chị P. với nội dung lăng mạ bà. Tất cả các "thư mời", "thư gửi", "cáo phó" này, ngoài việc dán ở gia đình cha mẹ đẻ chị P., ông ta còn đem rải ở nhiều địa điểm nơi chị P. từng sinh sống và gửi đến trường học nơi con gái chị P. đang theo học.

Ngón đòn hành hạ quái đản của người chồng đã khiến hai mẹ con chị P. suy sụp, phải bỏ nhà ra đi đến ở tại ngôi nhà tạm lánh của Hội phụ nữ. Dù không bị đánh đập tàn nhẫn nhưng các chuyên gia tư vấn cho rằng, đòn bạo hành mà chị P. phải gánh chịu thậm chí còn nặng nề hơn rất nhiều. Bởi, nếu những vết thương về thể xác, thời gian và nững can thiệp về y tế hoàn toàn có thể chữa lành được còn những vết thương tinh thần thì không...

Ví dụ 4: Còn đây là một ngón đòn bạo hành khác mà câu chuyện của nạn nhân này đã từng được đưa ra bàn luận tại nhiều cuộc hội thảo về bạo hành gia đình. Đó là câu chuyện về một người chồng đã tỏ ra rất bình tĩnh khi tận mắt chứng kiến vợ ngoại tình. Không đánh mắng vợ, cũng không gây chiến với tình địch bằng vũ khí, anh ta chỉ nhẹ nhàng xin tình địch 10 nghìn đồng và đón vợ về nhà. Cuộc sống gia đình tưởng như vẫn yên ổn. Chỉ khác là trong tất cả các bữa ăn của gia đình, tờ tiền 10 nghìn luôn luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Bất kể khi nào, các con cần tiền để đóng học, để mua sách vở... thì anh đều chỉ vào tờ tiền này và nói: "Tiền này do mẹ kiếm được đấy, các con cứ lấy mà chi dùng, rồi mẹ sẽ tiếp tục kiếm thêm". Cứ như thế, nhiều tháng sau khi bị chồng tra tấn bằng ngón đòn êm ái này, người vợ đã tự vẫn...

Ví dụ 5: Nhưng kinh hoàng và đen tối nhất là âm mưu của người chồng trong một vụ án hết sức thương tâm xảy ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc. Có anh chàng người dân tộc may mắn cưới được một cô vợ khá xinh đẹp. Một lần, phải đi xa nhà, sợ vợ ngoại tình, anh ta đã bí mật gài một quả lựu đạn dưới dát giường với toan tính tàn ác, nếu vợ mà rước giai về ngủ chung, trọng lượng tăng gấp đôi, dát giường sẽ trĩu xuống và cọ vào kíp nổ làm cho lựu đạn nổ, kết liễu đời cả đôi gian phu dâm phụ. Nhưng, khốn thay, thấy chồng đi vắng, chị vợ đã băng qua một quả đồi, đón mẹ chồng đưa bà về ngủ chung cho bớt cô quạnh. Và, lựu đạn nổ khi bà mẹ chồng và cô con dâu vừa đặt lưng xuống chiếc giường oan nghiệt đó...

(2) Kỹ năng về vận dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ hoà giải

* Câu chuyện thứ nhất: Nhà anh Thịnh sắp đến ngày giỗ bố, anh Thịnh ra chợ làng mua được một con gà trống tía rất ưng ý. Để đề phòng gà xổng chuồng đi mất, anh chặt lông đuôi, lông cánh rồi cẩn thận nhốt gà vào lồng (bội gà) để ở góc vườn. Ấy thế mà chẳng hiểu sao ngay chiều hôm đó, anh đã thấy con gà ung dung đi lại trong góc sân nhà anh Mạnh. 

Tuy hai nhà là hàng xóm, cũng chưa từng xảy ra điều tiếng gì nhưng xưa nay anh Thịnh ít qua lại nhà anh Mạnh. Biết tính anh Mạnh ham cờ bạc, lại hay qua lại với những người có tiếng là “cộm cán” trong vùng nên dù có tiếc con gà, anh Thịnh cũng chỉ quát tháo vài câu trong nhà cho đỡ bực.

Nhưng chị Nhung vợ anh Thịnh thì không chịu được. Chị ra ngay đầu ngõ kể với mấy bà hàng xóm chuyện “làng này có kẻ nhẫn tâm ăn của cả người chết”. Rồi câu chuyện “ăn của cả người chết” lan nhanh như điện, đến tối thì cả làng đều biết nhà Mạnh “bất nhân, bất nghĩa”. 

Chưa ai hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao thì tối hôm đó cả làng đã được một phen khiếp vía khi anh Mạnh cởi trần, mình đầy xăm trổ, tay lăm lăm con dao bầu quyết sang nhà anh Thịnh “xin tý tiết”. 

Nhận được tin báo, các hòa giải viên của thôn lập tức có mặt để hỏi rõ sự tình. Thấy ông Thông hòa giải viên đến, anh Mạnh có phần dịu lại vì ông Thông vốn là người có uy tín trong làng. Ông đề nghị hai nhà cùng ngồi lại để hỏi rõ ngọn ngành. Thì ra, do anh Thịnh không chặn kỹ nên con gà trống tía đã lách được ra khỏi lồng, chạy sang sân nhà anh Mạnh kiếm mồi. 

Anh Mạnh tức vì bị vu là ăn trộm gà, “ăn của cả người chết” nên định sang cho anh Thịnh một trận. Còn chị Nhung vì tiếc con gà nên trong lúc “loan tin” với các bà hàng xóm đã nhỡ miệng nói nhiều câu xúc phạm tới nhà anh Mạnh. 

Hiểu ra câu chuyện, ông Thông nhẹ nhàng phân tích cái hơn, cái thiệt, cái lý, cái tình cho chị Nhung, anh Mạnh. Lúc này, chị Nhung mới tiếc giá như mình đừng vội vàng “nhỏ to, buôn chuyện” mà sang ngay nhà anh Mạnh hỏi kỹ ngọn ngành thì mọi chuyện đã không nên nỗi. Nghe chị Nhung xin lỗi, anh Mạnh vui vẻ gọi ngay con trai mang gà sang trả lại anh Thịnh và còn hứa đến ngày giỗ bố anh Thịnh nhất định sẽ sang ăn cỗ. 

Chuyện “bé xé ra to” như con gà đi lạc của nhà anh Thịnh chỉ là một trong vô vàn câu chuyện mà hàng ngày các hòa giải viên ở cơ sở phải miệt mài hóa giải. 

Kinh nghiệm: Trong trường hợp trên, anh Thông là hòa giải viên đã vận dụng Kỹ năng hòa giải (nắm bắt tình hình sự việc, tổ chức đối thoại, giúp hai bên hiểu rõ vấn đề để các bên có thể loại bỏ mâu thuẩn).

(3) Kỹ năng tư vấn pháp luật

 Anh T và chị H vốn là những người hàng xóm liền kề, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Kể từ khi anh T xây lại nhà mình thành một ngôi nhà 3 tầng khang trang, tình cảm giữa hai nhà không còn như cũ nữa. Không rõ nguyên nhân chính xác của việc một bên tường nhà chị H bị nứt, phải sửa chữa lại thì mới đảm bảo an toàn. Chị H cho là tại nhà anh T xây lại nhà, nên nhà chị mới như vậy. Về phía anh T thì kiên quyết không nhận phần lỗi về mình. Nhận được thông tin, tổ hòa giải ở cơ sở sau khi tìm hiểu vụ việc, đã chủ động đến hỏi chuyện cùng hai gia đình anh T và chị H.

Buổi đầu tiên, hòa giải viên đã mời tổ trưởng khu phố, hai gia đình anh T và chị H cùng hai gia đình hàng xóm của họ. Cuộc nói chuyện diễn ra tại nhà chị H. Tổ hòa giải để cho hai gia đình anh T và chị H phát biểu quan điểm trước. Anh T khăng khăng cho rằng nhà mình không có lỗi, tường nhà chị H nứt là do nhà ấy xây không vững. Còn chị H chứng minh từ khi anh T xây nhà thì nhà mình mới xảy ra hiện tượng nứt tường. Bằng tình cảm xóm giềng, tổ hòa giải đã khuyên nhủ hai gia đình nên thông cảm cho nhau và anh T đồng ý bồi thường cho chị H tu sửa nhà, thống nhất sau 01 tuần sẽ trả lời chính thức cho Tổ hòa giải. Biên bản cuộc họp đã được lập.

Buổi thứ hai, anh T thay đổi ý kiến, không bồi thường cho chị H nữa vì theo người họ hàng làm địa chính của anh T thì anh T không phải bồi thường. Chị H không đồng ý, hai bên đã có lời nói xúc phạm nhau. Anh T nhất quyết mang vụ việc ra tòa án giải quyết. Tổ hòa giải đề ra phương án: Để hai bên suy nghĩ, thương lượng 01 tuần, nếu không được thì đưa vụ việc ra tòa án giải quyết.

Buổi thứ ba, anh T kiên quyết không thay đổi ý kiến. Tổ hòa giải thuyết phục nhưng không thành, hướng dẫn hai bên làm thủ tục để khởi kiện đến tòa án.

Kinh nghiệm:

Về phương thức hòa giải: Tổ hòa giải mới chỉ dùng lý lẽ, chưa áp dụng quy định pháp luật để dẫn chứng, cụ thể là Điều 267 về “Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng” và Điều 268 “Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề” của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Mời thêm thành phần tham gia hòa giải: Tổ hòa giải có thể tìm hiểu nhân thân của người họ hàng làm địa chính của anh T hoặc cán bộ làm công tác địa chính, xây dựng, mời họ tham gia hòa giải, giải thích rõ ràng quy tắc xây dựng và những ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Qua đó, làm rõ mối quan hệ nhân quả trong việc anh T xây nhà 3 tầng và sự nứt tường của nhà chị H. Có như vậy mới thuyết phục được anh T.

Như vậy, với việc vận dụng quy định pháp luật về trách nhiệm trong xây dựng công trình liền kề và mời người có chuyên môn, uy tín tham gia hòa giải nhằm giải thích các vấn đề liên quan một cách chi tiết thì công tác hòa giải sẽ hiệu quả hơn.

(4) Kỹ năng yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc

Để đưa ra lời khuyên (tư vấn) chính xác, đúng pháp luật thì hòa giải viên phải đề nghị đối tượng cung cấp đầy đủ các tài liệu (nếu có) phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp.

Phần lớn các vụ việc tranh chấp thường có các tài liệu như văn bản, thư từ giao dịch...  liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ, tài liệu này là những chứng cứ pháp lý thể hiện nội dung, bản chất của vụ việc hoặc phản ánh diễn biến và quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, có những vụ việc đối tượng chỉ trình bày vụ việc một cách chung chung, chưa muốn cung cấp cho hòa giải viên những văn bản, chứng cứ mà họ cho rằng không có lợi cho mình. Vì vậy, hòa giải viên cần thuyết phục để họ cung cấp đầy đủ. Nếu các bên tranh chấp không cung cấp những tài liệu này thì việc hòa giải khó chính xác và đúng pháp luật.

Sau khi đối tượng đã cung cấp đầy đủ văn bản, tài liệu liên quan, hòa giải viên phải đọc, nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu đó. Trong khi đọc có thể hình thành luôn giải pháp hoà giải trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của vấn đề đưa ra. Đối với những tài liệu mà hòa giải viên không hiểu, không đọc được hoặc có nghi ngờ về tính chân thực của nó thì cần hỏi lại đối tượng để khẳng định ngay. Trong mọi trường hợp, khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho đối tượng thì hòa giải viên không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.

(5) Kỹ năng tra cứu tài liệu tham khảo (Cách tìm văn bản, điều luật áp dụng)

Để đưa ra lời tư vấn pháp luật chính xác, việc tra cứu tài liệu pháp luật trong quá trình hòa giải là điều kiện bắt buộc bởi vì để khẳng định với các bên tranh chấp rằng hòa giải viên đang thực hiện hòa giải theo pháp luật, trên cơ sở pháp luật chứ không theo cảm tính chủ quan, duy ý chí của mình. Ngoài ra, việc tra cứu tài liệu pháp luật có liên quan đến vụ việc hòa giải sẽ giúp hòa giải viên kiểm tra tính chính xác những tư duy và khẳng định chính thức những lời tư vấn của mình là đúng pháp luật vì trong thực tiễn, không phải bao giờ hòa giải viên cũng có thể nhớ chính xác tất cả các quy định thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nếu thấy cần thiết hoặc các bên yêu cầu, thì hòa giải viên có thể cung cấp cho các bên bản sao văn bản, tài liệu đó cùng với lời tư vấn mà mình đưa ra trong trường hợp không tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó thì hòa giải viên có thể chưa đưa ra lời khuyên ngay mà hẹn đối tượng vào một dịp khác để khẳng định lại tính hợp pháp của văn bản pháp luật cần áp dụng.

Trường hợp vụ việc hòa giải có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà hòa giải viên chưa hiểu sâu, thì nên gặp các nhà chuyên môn hay đồng nghiệp khác mà am hiếu sâu về lĩnh vực pháp luật đó để tham khảo ý kiến trước khi đưa ra lời tư vấn, tránh tình trạng hòa giải viên chưa nắm vững pháp luật mà vẫn đưa ra lời tư vấn, giải đáp pháp luật dẫn đến việc hòa giải không chính xác, không đúng pháp luật, trái với nguyên tắc hòa giải, gây hậu quả cho các bên tranh chấp.

Kinh nghiệm: Đối với các tranh chấp thông thường, đó là Bộ luật Dân sự; đất đai có Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn; Hành chính là Luật Xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định xử phạt các lĩnh vực; hình sự Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.

(6) Kỹ năng xem xét, xác minh vụ việc

Việc xem xét, xác minh vụ việc trong hòa giải ở cơ sở chỉ áp dụng đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật hoặc đã được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân giúp đỡ giải quyết mà các bên vẫn không thỏa thuận được với nhau trong cách giải quyết tranh chấp. Việc xem xét, xác minh vụ việc chỉ được tiến hành sau khi đã nghe cả hai bên trình bày, xem xét các giấy tờ, tài liệu các bên cung cấp, hòa giải viên thấy chưa đủ cơ sở để tư vấn, đưa ra những giải pháp, cần phải tiến hành xem xét, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và những người có liên quan để tìm hiểu rõ bản chất vụ việc, tránh vội vàng đưa ra những kết luận phiến diện, chủ quan.

Quá trình xem xét, xác minh vụ việc đòi hỏi hòa giải viên phải thực sự khách quan, vô tư, nhất là khi tiếp xúc với những người có lợi ích liên quan trong vụ việc tranh chấp hoặc thân quen với một bên tranh chấp. Thông thường, những người có lợi ích liên quan đến vụ việc hoặc thân quen luôn bảo vệ việc có liên quan đã làm, nên chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho bên tranh chấp mà họ có liên quan. Vì vậy, hòa giải viên cần khéo léo đề nghị những người có liên quan cung cấp những thông tin, tài liệu chính xác, trung thực. Việc xem xét, xác minh nên lập thành biên bản để làm căn cứ giải thích, thuyết phục các bên tự nguyện hòa giải.

(7) Kỹ năng giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp (Kỹ năng giao tiếp của hòa giải viên)

Giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện thỏa thuận, giải quyết tranh chấp là nghệ thuật hòa giải, đòi hỏi hòa giải viên không chỉ có kiến thức pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tranh chấp, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ hòa giải, có uy tín, phẩm chất đạo đức, có tâm và kinh nghiệm cuộc sống mà còn có khả năng vận dụng pháp luật và đạo đức xã hội để giải thích, thuyết phục các bên đi đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp.

- Tỏ ra thông cảm và tôn trọng đối tượng: khi phân tích, giải thích cho các bên biết hành vi của họ là đúng hay sai, hòa giải viên cần phải xây dựng không khí gần gũi và tin tưởng, cảm thông và tôn trọng đối tượng, có thái độ ân cần, chia sẻ, nhiệt tình, cần phải làm cho không khí nói chuyện được vui vẻ, chan hòa. Như vậy, đối tượng sẽ lắng nghe ý kiến thuyết phục của hòa giải viên. Khi thuyết phục đối tượng mà nói được những suy nghĩ băn khoăn của họ thì dễ đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, mọi lý lẽ, thuyết phục của hòa giải viên phải xuất phát từ lập trường của các bên tranh chấp mà suy nghĩ và đặt vấn đề, đưa ra giải pháp tôi ưu cho các bên tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình.

- Khơi gợi cho các bên tranh chấp những tình cảm tốt đẹp vốn có giữa họ như tình cảm gia đình, tình cảm xóm giêng, bạn bè để họ dễ thông cảm cho nhau.

- Đưa ra những chứng cứ, ví dụ cụ thể để minh chứng cho việc phân tích, lập luận của hòa giải viên.

Kiên trì, thuyết phục, không nên nôn nóng: hòa giải viên cần suy nghĩ chín chắn, điều gì nên nói, điều gì không nên nói, ngoài ra còn phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết từng bước, nhất là đối vời những người có thái độ bảo thủ hoặc bất hợp tác.

Mục tiêu đặt ra đối với kỹ năng hòa giải là những lời khuyên thuyết phục và hướng dẫn của hòa giải viên phải được các bên chấp nhận, đồng thuận nghe theo và làm theo bằng việc các bên tự định đoạt giải quyết dứt điểm tranh chấp, lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên một cách tốt nhất.

Làm rõ những mặt lợi và bất lợi nếu để vụ việc mâu thuẩn tiến xa hơn.

Tình huống: Có cặp vợ chồng đã đông đủ cháu nội cháu ngoại nhưng chồng hay say xỉn nên chồng đánh vợ như cơm bữa. Hòa giải viên phải đến tận nhà để nói chuyện với ông chồng, lúc đến thì bát đũa, nồi niêu đang vứt loẻng xoẻng ngoài sân vì ông ta vừa say rượu và đánh vợ xong. Biết tình thế không thể ngồi nói chuyện phân bua khúc mắc giữa hai vợ chồng này, hòa giải viên đã đưa pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ra để phân tích mức độ vi phạm nặng nhẹ. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ phân tích gãy gọn, ông chồng đã nhận lỗi và hứa sẽ không đánh vợ nữa.

Kết luận: Những kỹ năng trên đây cần phải rèn luyện và đòi hỏi hòa giải viên phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức bằng nhiều hình thức.

          B. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ

I. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1. Khái niệm, những trường hợp thừa kế theo pháp luật, người thừa kế theo pháp luật

- Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: Không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

(Trong quá trình xây dựng dự thảo, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm vào hàng thừa kế này đối tượng là con dâu, con rể vì đây là những người có đóng góp trực tiếp vào cuộc sống của gia đình, đặc biệt là con dâu. Tuy nhiên, do còn những bất cập (chủ yếu các vấn đề nảy sinh gây chia rẻ trong gia đình) nên luật không đưa vào).

+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

- Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

2. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt

- Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định.

- Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về thừa kế thế vị, thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

- Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác: Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Ông A và bà B là vợ chồng. ông bà có 2 người con: Con trai là C và con gái là D. Anh C kết hôn với chị Đ và sống cùng ông bà AB trên mảnh đất của ông bà rộng 360m2. Chị C đi làm ăn xa và lấy chồng ở tỉnh khác. Năm 1973 ông A mất. Bà B ủy quyền cho con trai là ông C đứng tên trên sổ địa chính để sử dụng mảnh đất này từ năm 1983 và cũng đồng ý cho ông C, chị D (con gái ông bà) không có ý kiến gì. Vợ chồng ông CĐ xây dựng nhà cửa gồm một ngôi nhà hai tầng để ở. Thời gian gần đây, ông C tiến hành làm sổ đỏ mang tên ông. Trong quá trình làm thì bà D ở xa về không đồng ý và đòi chia đất.

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Do không nêu rõ mảnh đất này có trước khi kết hôn hay sau khi kết hôn, nên có 02 trường hợp: Mảnh đất này thuộc tài sản riêng của ông A hoặc mảnh đất thuộc tài sản chung của vợ chồng ông A bà B.

Trường hợp 1:

Nếu mảnh đất được xác định là tài sản riêng của ông A thì toàn bộ diện tích đất được xác định là khối di sản thừa kế của ông A để lại. Do ông A không để lại di chúc nên khối di sản trên được chia theo pháp luật, tức là chia theo hàng thừa kế. Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hàng thừa kế như sau (quy định về hàng thừa kế trong BLDS 2005 giống BLDS 2015):

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Theo quy định trên, bà B, ông C, bà D thuộc hàng thừa kế thứ nhất, do vậy sẽ được hưởng khối di sản bằng nhau, nghĩa là mỗi người được hưởng: 360m2/3 = 120m2.

Ông C được nhận: 120m2 (diện tích đất ông được thừa kế từ cha) + 120m2 (đất bà B nhận thừa kế từ ông A và tặng cho ông C) = 240m2.

Trường hợp thứ 2:

Nếu mảnh đất là tài sản chung của ông A bà B thì di sản ông A để lại chỉ là ½ mảnh đất, ½ còn lại thuộc quyền sử dụng của bà B. Theo đó, nếu chia theo pháp luật, phần di sản mà mỗi người được hưởng từ ông A là: (360/2)/3 = 60m2.

Trong trường hợp này, diện tích đất ông C có quyền sử dụng là 60m2 (thừa kế từ cha) + 60m2 (bà B thừa kế của ông A và tặng cho ông C) + 180m2 (1/2 mảnh đất thuộc quyền sử dụng của bà B trong khối tài sản chung và cho ông C) = 300m2.

Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng ông A mất năm 1973, theo BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó). 

II. THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1. Khái niệm di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

2. Người lập di chúc

Người thành niên có đủ điều kiện: Minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép, có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Người lập di chúc có quyền sau đây:

+ Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

+ Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

+ Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

3. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

a) Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp lập di chúc bằng đánh máy (trước đây chỉ có có viết tay), cụ thể: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

 Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. So với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 đã quy định toàn diện, đầy đủ hơn về trường hợp “người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

- Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực: Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc. Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

+ Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

+ Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực, cụ thể: Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp “di chúc của người đang bị tạm giữ”.

b) Di chúc miệng

Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

4. Di chúc hợp pháp

Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện nêu trên.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

5. Nội dung của di chúc

Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

6. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc; gửi giữ di chúc; di chúc bị thất lạc, hư hại

Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về công chứng. Người giữ bản di chúc có nghĩa vụ: Giữ bí mật nội dung di chúc; giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc; giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp: Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

7. Hiệu lực của di chúc

Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.

8. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.

 Quy định nêu trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định.

9. Di sản dùng vào việc thờ cúng

Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

10. Di tặng

Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm điều kiện “người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế’.

Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

11. Công bố di chúc và giải thích nội dung di chúc

Trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc. Trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.

Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.

Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực. So với Bộ luật năm 2005, Bộ luật năm 2015 sửa đổi quy định về việc giải quyết khi không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong khi Bộ luật năm 2005 quy định: “Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật”.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THỪA KẾ

Ví dụ: Hai cha con ông A và ông B chở nhau đi trên đường thì bị tai nạn giao thông qua đời cùng một lúc. Việc thừa kế của cha và con được hiểu như thế nào? Người con có được thừa kế của người cha không và ngược lại?.

Nếu ông B (người con) có 01 con trai nhỏ. Cháu trai này có được thừa kế tài sản từ người ông không?

1. Người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm; từ chối nhận di sản; người không được quyền hưởng di sản; tài sản không có người nhận thừa kế

a) Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm

Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định.

Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

b) Từ chối nhận di sản

Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

 Bộ luật năm 2015 nêu rõ: Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến (trước đây chỉ yêu cầu thông báo) người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

c) Người không được quyền hưởng di sản

Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Những người trên đây vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

d) Tài sản không có người nhận thừa kế

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.

2. Quyền thừa kế; thời điểm, địa điểm mở thừa kế và di sản

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bổ sung quy định mới: Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

 Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định theo quy định.

Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

3. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

4. Người quản lý di sản

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định nêu trên thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Người quản lý di sản (không phải là cơ quan nhà nước) có nghĩa vụ sau đây:

+ Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

+ Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có nghĩa vụ sau đây:

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

+ Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Bên cạnh các nghĩa vu, người quản lý di sản có các quyền sau đây:

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra; cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý  có quyền sau đây:

+ Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có quyền sau đây:

+ Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

5. Thời hiệu thừa kế

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Quy định gặp vướng mắc khi thực hiện trên thực tế vì thời hiệu khởi kiện 10 năm là quá ngắn để thực hiện quyền khởi kiện. Do đó, quyền lợi của người thừa kế tài sản không được pháp luật bảo vệ. Để được hưởng di sản thừa kế, không ít đương sự đã có những hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội. Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định cụ thể phương án xử lý những di sản thừa kế khi hết thời hiệu 10 năm nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý cũng như số phận thực tế của những di sản này.

Từ bất cập trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra quy định mới về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Cụ thể: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.

+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định trên đây.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

IV. THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

1. Họp mặt những người thừa kế

Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây: Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; cách thức phân chia di sản. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

2. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Bộ Luật năm 2015 sửa đổi về thứ tự ưu tiên thanh toán đối với trường hợp “Chi phí cho việc bảo quản di sản”. Nội dung này được Bộ luật năm 2005 xếp vị trí thứ 9, Bộ luật năm 2015 xếp vị trí thứ 3; sửa đổi, bổ sung chi phí “Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước” thành “Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước”.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

(1) Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

(2) Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

(3) Chi phí cho việc bảo quản di sản.

(4) Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

(5) Tiền công lao động.

(6) Tiền bồi thường thiệt hại.

(7) Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

(8) Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

(9) Tiền phạt.

(10) Các chi phí khác.

3. Phân chia di sản

a) Phân chia di sản theo di chúc

Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

b) Phân chia di sản theo pháp luật

Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

c) Hạn chế phân chia di sản

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp được gia hạn và không hạn chế đối với trường hợp đã kết hôn, cụ thể: Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm (Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế).

d) Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

 

 

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Ngày cập nhật 11/09/2020

MỘT SỐ NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

 

Ở một nước mà quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” được coi trọng như ở nước ta thì hoạt động hòa giải ở cơ sở sẽ luôn là sợi dây vô hình, bền chặt, góp phần kết nối và giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc. 

I. Bản chất của hoạt động hòa giải ở cơ sở

Hoạt động hòa giải cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định chủ trương, phát huy tinh thần dân chủ mạnh mẽ trong quá trình xây dựng Nhà nước, coi trọng sự đồng thuận của nhân dân, tăng cường đoàn kết trong nhân dân, giảm bớt các vụ việc phải đưa ra các cơ quan Nhà nước giải quyết. Để hoạt động hòa giải trở về đúng tính chất là hoạt động tự quản của nhân dân, do nhân dân tự quyết định trong đó vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở là yếu tố quan trọng, góp phần dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,

Như vậy, không hành chính hóa hoạt động hòa giải ở cơ sở. Hoạt động này phát huy được tính tự quản của cộng đồng dân cư nhưng đồng thời hạn chế được sự tham gia của Nhà nước đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở, đồng thời nâng cao vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với công tác này. Bản chất của hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện của người dân, do người dân tự thực hiện, Nhà nước chỉ hỗ trợ để người dân phát huy ý thức, trách nhiệm của mình trong giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trên địa bàn ngay từ khi mới phát sinh.

II. Các văn bản pháp luật

+ Luật Hòa giải ở cơ sở số 35/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

+ Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 4 năm 2014.

+ Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ngày 30 tháng 7 năm 2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.

+ Nghị quyết số 14/2015/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh và Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14 tháng 01 năm 2016 quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

III. Phân biệt hòa giải ở cơ sở với hòa giải khác

Hòa giải ở cơ sở khác với việc hòa giải trong tố tụng và hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai.

1. Theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở, Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định.

Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố).

Các bên là cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật mà theo quy định được hòa giải ở cơ sở.

2. Hòa giải trong tố tụng dân sự được áp dụng đối với các trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình. Trong tố tụng, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc. Hiệu lực của các thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với các bên liên quan. Không được hòa giải trong một số trường hợp: Yêu cầu bồi thường gây thiệt hại tài sản của Nhà nước; những vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự trái pháp luật; bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Thành phần hòa giải là Thẩm phán, Thư ký, đương sự. Việc hòa giải phải được lập biên bản hòa giải thành. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, các bên không thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Thỏa thuận có hiệu lực ngay. Thỏa thuận có thể bị kháng nghị theo tủ tục Giám đốc thẩm nếu có căn cứ thỏa thuận bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật.

(Giám đốc thẩm là xét lại quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng (về tố tụng, về áp dụng pháp luật, không phù hợp tình tiết khách quan của vụ án).

3. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một khâu bắt buộc trước khi tiếp tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2014, quy định hòa giải tranh chấp đất đai tại Điều 202 và 203:

Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

(1) Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;

(2) Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây: Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền:

 Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

4. Quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án

Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, tại Chương XXXIII của Bộ luật này quy định “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”. Theo đó, Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự, tức là sau khi có quyết định công nhận của Tòa án, các bên phải tự nguyện thi hành thỏa thuận của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành của Tòa án; hết thời gian này, bên phải thực hiện nghĩa vụ có điều kiện thực hiện nghĩa vụ mà không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện, bên có quyền được nộp đơn yêu cầu thi hành cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Để hướng dẫn cho các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở (nâng cao hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành ở cơ sở), ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Công văn số 3774/UBND-TP ngày 07/6/2017 để triển khai thực hiện.

Theo đó, để được Tòa án nhân dân ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở thì phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;

- Vụ, việc được hòa giải tuân thủ đúng quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở;

- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;

- Có văn bản hòa giải thành. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba;

- Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.

Thời hạn gửi đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là 06 tháng, kể từ ngày lập văn bản hòa giải thành. Cơ quan tiếp nhận đơn yêu cầu là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, làm việc.

- Hiệu lực của Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án:

+ Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

+ Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

+ Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở.

Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

Việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc không gửi đơn yêu cầu.

IV. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Thủ bầu hòa giải viên, có thể nói khá “rườm rà”, phức tạp, cụ thể có 03 bước:

- Bước 1: Chuẩn bị bầu hòa giải viên (Trong thời hạn 20 ngày, trước ngày dự kiến bầu hòa giải viên): Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận dự kiến những người được bầu làm hòa giải viên; thống nhất thời gian bầu hòa giải viên; quyết định hình thức bầu hòa giải viên; quyết định danh sách Tổ bầu hòa giải viên; thông báo công khai danh sách bầu hòa giải viên.

- Bước 2: Tổ chức bầu hòa giải viên: Bầu hòa giải viên bằng hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp được tiến hành khi có trên 50% đại diện các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố trở lên tham dự; hoặc bầu hòa giải viên bằng hình thức phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn, Tổ dân phố.

- Bước 3: Kết quả bầu hòa giải viên: Trưởng ban công tác Mặt trận lập hồ sơ về kết quả bầu hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để xem xét, quyết định.

 

Trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

a) Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. Nguyên tắc thể hiện qua việc hòa giải chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của các bên; tôn trọng sự thỏa thuận; trong quá trình thực hiện thỏa thuận cũng không được áp đặt, cưỡng chế.

b) Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi.

c) Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp cần phải thông báo để có biện pháp phòng ngừa khi mâu thuẩn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự công cộng; để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp phát hiện mâu thuẫn, tranh chấp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc pháp luật về hình sự.

Phân tích về bí mật thông tin đời tư:

Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình:

1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Phạm vi và nội hàm đặc trưng của đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình không được quy định rõ ràng dẫn tới có nhiều vướng mắc trên thực tiễn.

Ví dụ như vướng mắc trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học sinh có phải bí mật cá nhân, đời sống riêng tư’’ hay không. Vấn đề này thời gian vừa qua được Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường trung học phổ thông và cơ quan báo chí rất quan tâm khi công bố công khai điểm thi tốt nghiệp trung học phổ thông của thí sinh. Theo Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em, tại Điều 33 quy định “Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em”. Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm thi của trẻ em là thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Còn đối với những thí sinh trên 16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định điểm thi có là thông tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không. Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới quyền lợi của thí sinh trên 16 tuổi.

- Việc xác định các hành vi nào là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc không xâm phạm còn chưa có những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể mà chủ yếu nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Qua rà soát, nghiên cứu những biểu hiện sau đây là hành vi xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư : (1) Hành vi thu thập, công bố các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân không được sự đồng ý của người đó hoặc của nhân thân cá nhân trong trường hợp cá nhân chết, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật ; (2) Hành vi xâm phạm bất hợp pháp chỗ ở của cá nhân ; (3) Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân. Tuy nhiên ở nước ta và ngay cả một số quốc gia tiến bộ, việc xác định hành vi xâm phạm không hề dễ dàng và thường gây nên sự tranh cãi của công chúng và khi xét xử vụ việc cụ thể nào đó thường do thẩm phán quyết định dựa trên kinh nghiệm và tương tự pháp luật. Thời gian vừa qua có một số vụ việc còn có nhiều quan điểm tranh luận xoay quanh như:

Các thông tin liên quan đến tổng tài sản của cá nhân và hành vi công khai thông tin có bị coi là xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không còn có tranh cãi. Báo Đại Đoàn Kết có đưa tin về ‘‘Những người giàu nhất Việt Nam’’. Có quan điểm cho rằng pháp luật không buộc cá nhân phải công khai tài sản của mình trừ khi được sự đồng ý của họ, ngoại trừ một số trường hợp cá nhân phải công khai tài sản theo quy định của pháp luật hoặc buộc chứng minh nguồn gốc tài chính; quan điểm khác cho rằng tổng tài sản của những người giàu nhất Việt Nam đã được thể hiện công khai thông qua những thông tin dữ liệu được công khai ví dụ như tổng số cổ phiếu niêm yết tại sàn chứng khoán, hay tổng số bất động sản góp vốn vào công ty… do đó tổng tài sản của những người này được phép công khai mà không cần xin phép họ.

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh đặc biệt là hình ảnh liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình cũng được đưa ra tranh luận bởi lẽ sự phân định giữa quyền của cá nhân đối với hình ảnh và quyền tự do báo chí còn chưa có quy định rõ ràng. Hoặc thậm chí việc đăng tải hình ảnh của cá nhân phạm tội lên trên báo chí hoặc mạng xã hội cũng là một vấn đề còn tranh cãi.

Ngày 20/7/2017, Bộ Tư pháp tổ chức họp báo định kỳ để thông tin về công tác tư pháp quý II/2017. Người phát ngôn Bộ Tư pháp, Chánh Văn phòng Bộ Đỗ Đức Hiển chủ trì buổi họp báo cùng sự tham dự của đại diện lãnh đạo nhiều đơn vị liên quan thuộc Bộ để trả lời hàng loạt vấn đề mà dư luận quan tâm trong thời gian qua. Về vấn đề liên quan giữa bảo vệ bí mật đời tư với công khai điểm thi của thí sinh thi tốt nghiệp THPT quốc gia, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự kinh tế Nguyễn Hồng Hải quan niệm, Bộ luật Dân sự năm 2015 tuy có quy định nguyên tắc về bảo vệ bí mật đời sống riêng tư nhưng thế nào là đời sống riêng tư thì Bộ luật không quy định mà việc quy định cụ thể sẽ do các luật chuyên ngành hướng dẫn. Đối với công bố điểm thi, theo Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định hướng dẫn Luật, với học sinh dưới 16 tuổi thì thông tin về kết quả học tập là thông tin đời sống riêng tư và thông tin này được bảo vệ theo nguyên tắc thông tin cá nhân. Học sinh từ 16 tuổi trở lên thì hiện không có quy định cụ thể nào nói đây là thông tin đời sống riêng tư cần bảo vệ. Việc công khai điểm thi của học sinh từ 16 – 18 tuổi có bị cấm hay không thì phải có điều luật quy định cụ thể. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm quốc tế, ông Hải nhận thấy các nước thường xây dựng 1 trang web điện tử trực tuyến, những cá nhân cần biết điểm sẽ tra bằng số báo danh, số ID của mình. “Để hạn chế những rủi ro không cần thiết đối với lợi ích nhân thân, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kịp thời nghiên cứu hoàn thiện vấn đề này”.

Ở nước ngoài, nhiều nước chưa có khái niệm rõ ràng về vấn đề này và nhiều nước khi xét xử áp dụng án lệ. Vụ việc diễn ra tại thành phố Dortmund Cộng hòa Liên bang Đức liên quan đến việc xác định hành vi có xâm phạm đời sống riêng tư của cá nhân như sau: ông Robert xây một khu xông hơi sau vườn, mỗi lần tới đây, ông quyết định không mặc quần áo mà khỏa thân đi vào phòng xông hơi. Hàng xóm nhiều lần chứng kiến hành động này và họ cảm thấy không hài lòng và họ quyết định khởi kiện lên Tòa án thành phố Dortmund vì “không thể chịu nổi hình ảnh khỏa thân” của Robert. Thẩm phán nói rằng mỗi tuần ông Robert sử dụng phòng xông hơi 2 lần và việc khỏa thân theo tần suất này là “chấp nhận được”. Thẩm phán nói rằng không hề thấy dấu hiệu vi phạm hình sự trong trường hợp này và ông Robert hoàn toàn có quyền được khỏa thân đi lại tự do trong vườn nhà mình. Tuy nhiên hàng xóm nói Robert thường xuyên say xỉn, không chịu xây toilet và thường đi vệ sinh vào những bụi việt quất ông trồng. Thẩm phán đáp lời rằng luật pháp không cấm việc một người đi vệ sinh trong vườn nhà của ông ta. Vụ việc kết thúc và luật sư của ông Hans nói rằng “đây là một trải nghiệm đau buồn”.
        Vụ việc tại thành phố Ottawa vào tháng 10/2017, một viên chức thành phố có tên Dunn bị Thành phố Ottawa yêu cầu tiết lộ tất cả các email được gửi hoặc nhận bởi Rick O'Connor - một Luật Sư Thành Phố, bởi lẽ email này do Thành phố cấp cho Dunn để làm việc, và có dấu hiệu nghi ngờ Dunn đã tiết lộ một số thông tin bí mật của Thành phố. Qua nhiều lần tranh luận tại Tòa, thẩm phán đã phán quyết rằng khó phân biệt giữa "thông tin cá nhân và tài liệu của nhân viên được lưu trữ dưới hình thức giấy trong tủ hồ sơ của chính phủ và bàn làm việc và các hồ sơ lưu trữ dưới dạng điện tử trong hệ thống máy tính do chính phủ sở hữu và nội dung liên lạc qua email giữa O'Connor và Dunn không liên quan gì đến các vấn đề kinh doanh của thành phố. Do đó, việc tiết lộ nội dung trong email của Dunn sẽ vi phạm quyền riêng tư của O'Connor và Dunn".

Bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín…

Tình huống:

Thời gian gần đây, chị B nhận thấy những biểu hiện khác thường ở anh A – chồng chị B. Ở nhà, anh thường lạnh nhạt, ít nói, hay cáu gắt với vợ con hơn trước. Chi B sinh nghi chồng mình có người phụ nữ khác, hai vợ chồng thường xuyên to tiếng với nhau. Chi B ôm con về nhà mẹ đẻ.

Giả sử có 02 trường hợp:

TH1: Sau khi gặp gỡ với anh A, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A. Do trong một lần tụ tập bạn bè, không làm chủ được hành vi của mình, anh đã có quan hệ với một tiếp viên, sau đó biết được cô gái này bị HIV. Từ đó, vừa lo lắng, vừa ân hận, không biết mình đã bị lây nhiễm chưa, và vợ mình có bị không. Trường hợp này hòa giải viên phải khuyên giải anh A đi xét nghiệm và không được tiết lộ về thông tin này vì nó ảnh hưởng nghiêm trọng tói cuộc sống của anh A và những người xung quanh.

TH2: Sau khi tìm hiểu, hòa giải viên biết được nguyên nhân sự thay đổi tính tình của anh A là do có người phụ nữ khác, thường xuyên qua lại với người này. Trường hợp này anh A vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

d) Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

đ) Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Quy định về bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở là nội dung mới so với quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở trước đây, phù hợp với yêu cầu thực tiễn nhiệm vụ và pháp luật về bình đẳng giới. Bình đẳng giới thể hiện trong tổ chức và trong hoạt động. Trong tổ chức, phải có hòa giải viên nữ tham gia tổ hòa giải; trong hoạt động hòa giải các vụ việc, phải xét đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em.

e) Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.

V. Kinh phí và chế độ của Tổ hòa giải, hòa giải viên

1. Nguồn kinh phí hỗ trợ

Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở để biên soạn, phát hành tài liệu; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng về hòa giải ở cơ sở; sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở; chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc và hỗ trợ các chi phí cần thiết khác cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.

2. Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên

Nội dung chi hỗ trợ cho tổ hòa giải và hòa giải viên bao gồm:

- Chi hỗ trợ cho hòa giải viên bao gồm: Chi hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc; chi hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải;

- Chi hỗ trợ tổ hòa giải để mua tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ hoạt động của tổ hòa giải; tổ chức các cuộc họp, sơ kết, tổng kết hoạt động của tổ hòa giải;

3. Mức chi hỗ trợ

Hiện nay, Thông tư hướng dẫn về nội dung chi và mức chi trong công tác hòa giải đang được Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính phối hợp ban hành. Do đó, văn bản áp dụng ở địa phương hiện nay vẫn là Quyết định số 02/2016/QĐ-UBND ngày 14/01/2016 về việc quy định mức chi đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.

Một số mức chi cụ thể như sau:

- Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải):

+ Hòa giải thành: 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải;

+ Hòa giải không thành: 150.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải.

- Hỗ trợ chi phí mai táng cho người tổ chức mai táng hòa giải viên gặp tai nạn hoặc rủi ro bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở: Mức chi bằng 05 tháng lương cơ sở.

- Chi hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải (chi mua văn phòng phẩm, sao chụp tài liệu, nước uống phục vụ các cuộc họp của tổ hòa giải): 100.000 đồng/tổ hòa giải/tháng.

- Chi bồi dưỡng thành viên Ban tổ chức bầu hòa giải viên tham gia họp chuẩn bị cho việc bầu hòa giải viên: 50.000 đồng/người/buổi.

- Chi tiền nước uống cho người tham dự cuộc họp bầu hòa giải viên: 10.000 đồng/người/buổi.

4. Điều kiện hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ, việc của hòa giải viên

- Vụ, việc được tiến hành hòa giải và đã kết thúc theo quy định.

- Hòa giải viên không vi phạm nghĩa vụ của hòa giải viên.

Như vậy, cần lưu ý rằng, một vụ việc dù được hòa giải thành hay không nhưng đáp ứng các điều kiện trên thì được hưởng hỗ trợ thù lao theo vụ việc.

5. Phương thức và thủ tục hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên

- Việc hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên được thực hiện sau khi vụ, việc hòa giải kết thúc.

- Hồ sơ thanh toán hỗ trợ thù lao cho hòa giải viên:

Nhìn chung, hồ sơ thanh toán là những chứng từ (giấy tờ, hóa đơn) liên quan chứng minh công việc đã thực hiện theo yêu cầu, bao gồm:

+ Tổ trưởng tổ hòa giải lập hồ sơ đề nghị thanh toán thù lao cho hòa giải viên, bao gồm: Giấy đề nghị thanh toán thù lao của hòa giải viên có ghi rõ họ, tên, địa chỉ của hòa giải viên; tên, địa chỉ tổ hòa giải; số tiền đề nghị thanh toán; nội dung thanh toán (có danh sách các vụ, việc trong trường hợp đề nghị thanh toán thù lao cho nhiều vụ, việc); chữ ký của hòa giải viên; chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải và xuất trình Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để đối chiếu khi cần thiết.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định và trả thù lao cho hòa giải viên thông qua tổ hòa giải; trường hợp quyết định không thanh toán cho hòa giải viên thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Tổ hòa giải trả thù lao cho hòa giải viên theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được thù lao.

6. Các trường hợp hòa giải viên được hưởng hỗ trợ, tạo điều kiện khắc phục hậu quả khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Trường hợp được hỗ trợ

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trong khi đang thực hiện hòa giải.

+ Bị tai nạn hoặc rủi ro trên đường đi và về từ nơi ở đến địa điểm thực hiện hòa giải trên tuyến đường và trong khoảng thời gian hợp lý.

- Các khoản được hỗ trợ

Hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ như sau:

+ Chi phí cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; nếu thu nhập thực tế của hòa giải viên không ổn định hoặc không thể xác định được thì áp dụng cách tính theo thu nhập bình quân hàng ngày của người làm công ăn lương chia theo khu vực thành thị, nông thôn, loại hình kinh tế ngoài nhà nước trong thời gian cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút.

Gia đình của hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở được hỗ trợ một lần bằng tiền để chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc hòa giải viên trước khi chết; người tổ chức mai táng được hỗ trợ chi phí cho việc mai táng.

7. Thủ tục thực hiện hỗ trợ cho hòa giải viên khi gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải

- Hồ sơ

+ Giấy đề nghị hỗ trợ của hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng có xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc Trưởng ban công tác Mặt trận trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại là tổ trưởng tổ hòa giải. Giấy đề nghị hỗ trợ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người yêu cầu hỗ trợ; lý do yêu cầu hỗ trợ;

+ Biên bản xác nhận tình trạng của hòa giải viên bị tai nạn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra tai nạn hoặc cơ quan công an nơi xảy ra tai nạn (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Giấy ra viện, hóa đơn thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp);

+ Văn bản, giấy tờ hợp lệ về thu nhập thực tế theo tiền lương, tiền công hằng tháng của người bị tai nạn có xác nhận của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp), bao gồm: Hợp đồng lao động, quyết định nâng lương của tổ chức hoặc cá nhân sử dụng lao động hoặc bản kê có thu nhập thực tế của hòa giải viên bị tai nạn và các giấy tờ chứng minh thu nhập thực tế hợp pháp khác (nếu có);

+ Giấy chứng tử trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng (bản chính hoặc bản sao có chứng thực trong trường hợp gửi qua đường bưu điện; bản phô tô và bản chính để đối chiếu trong trường hợp nộp trực tiếp).

- Hòa giải viên hoặc gia đình hòa giải viên trong trường hợp hòa giải viên bị thiệt hại về tính mạng nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ  đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã ra quyết định công nhận hòa giải viên.

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện kèm theo hồ sơ đề nghị hỗ trợ.

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, ra quyết định hỗ trợ; trường hợp không hỗ trợ thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Chậm nhất sau 03 ngày làm việc, kể từ ngày ngày nhận được quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc chi tiền hỗ trợ.

VI. Một số kỹ năng hòa giải ở cơ sở

1. Kỹ năng hòa giải là một yếu tố quan trọng trong công tác hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng. Kỹ năng hòa giải tốt sẽ giúp phát huy tốt hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở; ngược lại, có thể làm cho sự việc không chỉ hòa giải không thành mà còn có thể gây nên những hậu quả khó lường.

Câu chuyện thực tế:

Một vụ việc khiến hòa giải viên buồn và “sốc”, đó là chuyện chồng rượu chè thường xuyên đánh đập vợ, dẫn đến, người vợ "tức nước vỡ bờ", không làm chủ được hành vi đã “xuống tay” giết chồng.

Chị Minh là người phụ nữ rất đảm đang, tháo vát. Chị lấy anh Hòa, sinh được được một bé gái thì chị Minh không thể chịu đựng nổi tính tình côn đồ, thường xuyên rượu chè, đánh đập vợ của ông Hòa. Chị bỏ chồng, đi xã làm ăn. Đứa con chung của hai người ở cùng bố không lâu thì mất.

Ông Hòa đi lấy vợ hai thì sinh thêm được một con gái. Nhưng với bản tính của ông Hòa, dường như khó có người phụ nữ nào chung sống được lâu dài. Thế nên chỉ sau một thời gian ngắn gắn bó, ông Hòa và vợ hai chia tay. Ông Hòa đón chị Minh về “nối lại tình xưa”. Vì vẫn còn tình cảm với ông Hòa nên chị Minh về sống cùng, sau đó sinh được thêm 2 người con.

Là người giỏi thu vén nên kinh tế trong gia đình đa phần do một tay chị Minh tạo dựng. Ông Hòa vốn bê tha rượu chè nên không chỉ không giúp đỡ kinh tế cho vợ mà còn thường xuyên bị “ma men” điều khiển, đánh đập vợ con.

Chị Minh cứ sắm sửa được cái gì, ông lên cơn say là đập nát hết. Những lần mới cãi vã, người trong thôn trong xóm còn tới can thiệp, khuyên giải, Tổ hòa giải cũng vào cuộc nhiều lần nhưng hòa thuận được mấy hôm rồi  vẫn “đâu lại vào đấy” nên không ai còn  thiết tha với chuyện cãi nhau như cơm bữa của gia đình ông Hòa bà Minh nữa.

Chị Thơm là Hòa giải viên vẫn ghé qua để trò chuyện với bà Minh và ông Hòa. Chị đã khuyên giải và mong muốn hai vợ chồng ông Hòa và bà Minh cố gắng làm ăn. Nhất là ông Hòa không còn rượu chè nữa, hãy tu chí làm ăn giúp đỡ bà Minh. Nghe chị Thơm nói, cả hai ông bà đều gật đầu quyết chí. Nhưng lại được mấy hôm chị Thơm lại phải chứng kiến cảnh vợ chồng ông bà cãi vã, xô xát nhau.

Khi “con giun xéo lắm cũng quằn”, trong một lần bị chồng đánh đập, chửi bới rồi đem hết quần áo của mình ra sân đốt, bà Minh đã cầm kéo đâm chồng khiến nạn nhân tử vong.

Hoặc có trường hợp chị ham làm công tác xã hội thường xuyên đi làm về muộn, ít có thời gian chăm sóc gia đình và các con. Anh chồng khó chịu, thường mắng chửi vợ. Chị vợ lại nóng tính, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau ảnh hưởng đến an ninh, trật tự thôn xóm.

Thực tế có rất nhiều các trường hợp phải nhờ đến hòa giải viên, hôn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, các tranh chấp nhỏ... Và thực tế công tác hòa giải ở cơ sở cũng hết sức vất vả. Đây được ví như công việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nhưng có những trường hợp khi hòa giải thì hòa giải viên bị những người trong cuộc chửi bới, dọa đánh, đe dọa... Chế độ thì rất ít, có khi còn không có, nhưng trách nhiệm lại nặng nề và đòi hỏi hòa giải viên phải có các kỹ năng nhất định. 

2. Khái niệm kỹ năng hòa giải

Kỹ năng hòa giải là khả năng của hòa giải viên vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội, bằng sự nêu gương của mình và kinh nghiệm cuộc sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp, mâu thuẩn, nhằm xóa bỏ bất đồng và đạt được thỏa thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật ở cơ sở.

3. Một số kỹ năng hoà giải ở cơ sở cần lưu ý

(1) Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội.

Kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội là một kỹ năng rất quan trọng, không thể thiếu trong công tác hòa giải ở cơ sở. Bất kỳ một vụ việc hòa giải nào cũng cần viện đến kiến thức pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội.

Từ thực tiễn hòa giải cho thấy, các vụ việc mâu thuẩn xảy ra phổ biến nhất là trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Xã hội càng hiện đại thì dường như chuyện tan vỡ gia đình ngày càng phổ biến hơn. Trước ở làng ở quê hiếm lắm mới thấy có đôi trục trặc dẫn tới bỏ nhau song hiện giờ số vụ đã nhiều hơn. Mỗi năm, có nhiều các vụ hòa giải từ to đến nhỏ: ghen tuông, cãi vã cho tới việc quyết định ly hôn.

Cái khó của những hòa giải viên cơ sở chính là người dân ở nhiều thôn quê, làng xã trình độ dân trí còn thấp, vẫn "trọng nam khinh nữ", người đàn ông quen sống gia trưởng, người phụ nữ luôn luôn chịu nhịn nhục, để người chồng hành hung. Hoặc là người phụ nữ vì quá uất ức, quẫn trí nên đã có những hành động thiếu suy nghĩ....

Để hòa giải các cặp đôi "sứt mẻ" thành công, hòa giải viên phải bàn họp, nghĩ nhiều cách khác nhau.

Các hòa giải viên mong muốn giúp những cặp vợ chồng trong thôn quê của mình hiểu rõ về pháp luật, nhất là pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. Họ chịu nghe lời của các hòa giải viên để sống tốt hơn, đầm ấm hơn. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết hòa giải viên cần báo cáo cư quan chức năng can thiệp sớm vào các vụ việc để không có những hậu quả đau lòng xảy ra.

Ví dụ về hậu quả nếu không can thiệp kịp thời

Ví dụ 1: Qua mai mối, Khánh quen biết vợ tên là Lan Anh, là một cô gái hiền lành, ít nói, đang làm công nhân may. Sau khi lấy nhau, vợ chồng Khánh đã được gia đình nhà vợ cho mượn một ngôi nhà để ở với đầy đủ tiện nghi. Sau đó, Khánh có bồ và vì vậy mà những cuộc cãi vã, xô xát xảy ra thường xuyên. Thậm chí có lúc bồ của Khánh còn nhắn tin vào máy điện thoại di động xui Khánh bỏ vợ và không được có con với vợ. Trong một lần tình cờ, Lan Anh đọc được cái tin nhắn này trong điện thoại của Khánh nên 02 vợ chồng cãi nhau, dẫn đến xô xát và Khánh đã đánh chết vợ.

Ví dụ 2: Hai vợ chồng anh Tuyên làm xe ôm, còn chị Huệ thì buôn bán vặt vãnh, nuôi 02 đứa con. Tiền kiếm được không đáng là bao mà Tuyên thì lại ham mê lô đề. Chị Huệ khuyên bảo mãi không được và cũng vì chuyện đó mà hai vợ chồng cãi vã. Bực tức, Tuyên đã xuống tay giết vợ rồi nói dối hai con là mẹ đã bỏ ba bố con để đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc. Sự thật chỉ được phát hiện cho tới khi những phần máu thịt đớn đau của người mẹ xấu số đó sau nhiều ngày bị dìm xuống hồ sâu đã nổi lên mặt nước và được quần chúng nhân dân phát hiện.

Ví dụ 3: Nếu như đấm, đá, đập... được coi là lối bạo hành truyền thống thì nay, trong thời đại của công nghệ, nhiều kiểu bạo hành quái đản đã nảy sinh. Khi kết hôn với nhau, cả ông D. và chị P. đều đã trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc và mỗi người đều đã có một con riêng. Tưởng sau những bất hạnh, cuộc hôn nhân lần này sẽ mang đến hạnh phúc. Nhưng không, chỉ sau một thời gian không dài thì cuộc sống chung bắt đầu cơm không lành, canh không ngọt.

Không giống như nhiều người phụ nữ khác, chị không phải hứng chịu những trận đòn thừa sống thiếu chết của chồng. Không phải chịu nỗi đau về thể xác nhưng người đàn ông này đã ra những đòn bạo hành về tinh thần rất quái đản để hành hạ chị. Đầu tiên là ông ta thay toàn bộ khóa cửa nhà để mẹ con chị mất chỗ cư trú. Sau đó, ông ta bắt đầu tự chế tạo ra hàng loạt những tờ rơi có tiêu đề là "Thư mời" với nội dung: Chị P. là gái gọi, kèm theo địa chỉ, số điện thoại "để khách làng chơi tiện liên hệ". Cùng với các "thư mời", ông D. còn chế tạo ra các tờ "cáo phó" với nội dung thông báo là chị P. đã chết và các "thư gửi" đề tên người nhận là mẹ đẻ của chị P. với nội dung lăng mạ bà. Tất cả các "thư mời", "thư gửi", "cáo phó" này, ngoài việc dán ở gia đình cha mẹ đẻ chị P., ông ta còn đem rải ở nhiều địa điểm nơi chị P. từng sinh sống và gửi đến trường học nơi con gái chị P. đang theo học.

Ngón đòn hành hạ quái đản của người chồng đã khiến hai mẹ con chị P. suy sụp, phải bỏ nhà ra đi đến ở tại ngôi nhà tạm lánh của Hội phụ nữ. Dù không bị đánh đập tàn nhẫn nhưng các chuyên gia tư vấn cho rằng, đòn bạo hành mà chị P. phải gánh chịu thậm chí còn nặng nề hơn rất nhiều. Bởi, nếu những vết thương về thể xác, thời gian và nững can thiệp về y tế hoàn toàn có thể chữa lành được còn những vết thương tinh thần thì không...

Ví dụ 4: Còn đây là một ngón đòn bạo hành khác mà câu chuyện của nạn nhân này đã từng được đưa ra bàn luận tại nhiều cuộc hội thảo về bạo hành gia đình. Đó là câu chuyện về một người chồng đã tỏ ra rất bình tĩnh khi tận mắt chứng kiến vợ ngoại tình. Không đánh mắng vợ, cũng không gây chiến với tình địch bằng vũ khí, anh ta chỉ nhẹ nhàng xin tình địch 10 nghìn đồng và đón vợ về nhà. Cuộc sống gia đình tưởng như vẫn yên ổn. Chỉ khác là trong tất cả các bữa ăn của gia đình, tờ tiền 10 nghìn luôn luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Bất kể khi nào, các con cần tiền để đóng học, để mua sách vở... thì anh đều chỉ vào tờ tiền này và nói: "Tiền này do mẹ kiếm được đấy, các con cứ lấy mà chi dùng, rồi mẹ sẽ tiếp tục kiếm thêm". Cứ như thế, nhiều tháng sau khi bị chồng tra tấn bằng ngón đòn êm ái này, người vợ đã tự vẫn...

Ví dụ 5: Nhưng kinh hoàng và đen tối nhất là âm mưu của người chồng trong một vụ án hết sức thương tâm xảy ra tại một tỉnh miền núi phía Bắc. Có anh chàng người dân tộc may mắn cưới được một cô vợ khá xinh đẹp. Một lần, phải đi xa nhà, sợ vợ ngoại tình, anh ta đã bí mật gài một quả lựu đạn dưới dát giường với toan tính tàn ác, nếu vợ mà rước giai về ngủ chung, trọng lượng tăng gấp đôi, dát giường sẽ trĩu xuống và cọ vào kíp nổ làm cho lựu đạn nổ, kết liễu đời cả đôi gian phu dâm phụ. Nhưng, khốn thay, thấy chồng đi vắng, chị vợ đã băng qua một quả đồi, đón mẹ chồng đưa bà về ngủ chung cho bớt cô quạnh. Và, lựu đạn nổ khi bà mẹ chồng và cô con dâu vừa đặt lưng xuống chiếc giường oan nghiệt đó...

(2) Kỹ năng về vận dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ hoà giải

* Câu chuyện thứ nhất: Nhà anh Thịnh sắp đến ngày giỗ bố, anh Thịnh ra chợ làng mua được một con gà trống tía rất ưng ý. Để đề phòng gà xổng chuồng đi mất, anh chặt lông đuôi, lông cánh rồi cẩn thận nhốt gà vào lồng (bội gà) để ở góc vườn. Ấy thế mà chẳng hiểu sao ngay chiều hôm đó, anh đã thấy con gà ung dung đi lại trong góc sân nhà anh Mạnh. 

Tuy hai nhà là hàng xóm, cũng chưa từng xảy ra điều tiếng gì nhưng xưa nay anh Thịnh ít qua lại nhà anh Mạnh. Biết tính anh Mạnh ham cờ bạc, lại hay qua lại với những người có tiếng là “cộm cán” trong vùng nên dù có tiếc con gà, anh Thịnh cũng chỉ quát tháo vài câu trong nhà cho đỡ bực.

Nhưng chị Nhung vợ anh Thịnh thì không chịu được. Chị ra ngay đầu ngõ kể với mấy bà hàng xóm chuyện “làng này có kẻ nhẫn tâm ăn của cả người chết”. Rồi câu chuyện “ăn của cả người chết” lan nhanh như điện, đến tối thì cả làng đều biết nhà Mạnh “bất nhân, bất nghĩa”. 

Chưa ai hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao thì tối hôm đó cả làng đã được một phen khiếp vía khi anh Mạnh cởi trần, mình đầy xăm trổ, tay lăm lăm con dao bầu quyết sang nhà anh Thịnh “xin tý tiết”. 

Nhận được tin báo, các hòa giải viên của thôn lập tức có mặt để hỏi rõ sự tình. Thấy ông Thông hòa giải viên đến, anh Mạnh có phần dịu lại vì ông Thông vốn là người có uy tín trong làng. Ông đề nghị hai nhà cùng ngồi lại để hỏi rõ ngọn ngành. Thì ra, do anh Thịnh không chặn kỹ nên con gà trống tía đã lách được ra khỏi lồng, chạy sang sân nhà anh Mạnh kiếm mồi. 

Anh Mạnh tức vì bị vu là ăn trộm gà, “ăn của cả người chết” nên định sang cho anh Thịnh một trận. Còn chị Nhung vì tiếc con gà nên trong lúc “loan tin” với các bà hàng xóm đã nhỡ miệng nói nhiều câu xúc phạm tới nhà anh Mạnh. 

Hiểu ra câu chuyện, ông Thông nhẹ nhàng phân tích cái hơn, cái thiệt, cái lý, cái tình cho chị Nhung, anh Mạnh. Lúc này, chị Nhung mới tiếc giá như mình đừng vội vàng “nhỏ to, buôn chuyện” mà sang ngay nhà anh Mạnh hỏi kỹ ngọn ngành thì mọi chuyện đã không nên nỗi. Nghe chị Nhung xin lỗi, anh Mạnh vui vẻ gọi ngay con trai mang gà sang trả lại anh Thịnh và còn hứa đến ngày giỗ bố anh Thịnh nhất định sẽ sang ăn cỗ. 

Chuyện “bé xé ra to” như con gà đi lạc của nhà anh Thịnh chỉ là một trong vô vàn câu chuyện mà hàng ngày các hòa giải viên ở cơ sở phải miệt mài hóa giải. 

Kinh nghiệm: Trong trường hợp trên, anh Thông là hòa giải viên đã vận dụng Kỹ năng hòa giải (nắm bắt tình hình sự việc, tổ chức đối thoại, giúp hai bên hiểu rõ vấn đề để các bên có thể loại bỏ mâu thuẩn).

(3) Kỹ năng tư vấn pháp luật

 Anh T và chị H vốn là những người hàng xóm liền kề, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Kể từ khi anh T xây lại nhà mình thành một ngôi nhà 3 tầng khang trang, tình cảm giữa hai nhà không còn như cũ nữa. Không rõ nguyên nhân chính xác của việc một bên tường nhà chị H bị nứt, phải sửa chữa lại thì mới đảm bảo an toàn. Chị H cho là tại nhà anh T xây lại nhà, nên nhà chị mới như vậy. Về phía anh T thì kiên quyết không nhận phần lỗi về mình. Nhận được thông tin, tổ hòa giải ở cơ sở sau khi tìm hiểu vụ việc, đã chủ động đến hỏi chuyện cùng hai gia đình anh T và chị H.

Buổi đầu tiên, hòa giải viên đã mời tổ trưởng khu phố, hai gia đình anh T và chị H cùng hai gia đình hàng xóm của họ. Cuộc nói chuyện diễn ra tại nhà chị H. Tổ hòa giải để cho hai gia đình anh T và chị H phát biểu quan điểm trước. Anh T khăng khăng cho rằng nhà mình không có lỗi, tường nhà chị H nứt là do nhà ấy xây không vững. Còn chị H chứng minh từ khi anh T xây nhà thì nhà mình mới xảy ra hiện tượng nứt tường. Bằng tình cảm xóm giềng, tổ hòa giải đã khuyên nhủ hai gia đình nên thông cảm cho nhau và anh T đồng ý bồi thường cho chị H tu sửa nhà, thống nhất sau 01 tuần sẽ trả lời chính thức cho Tổ hòa giải. Biên bản cuộc họp đã được lập.

Buổi thứ hai, anh T thay đổi ý kiến, không bồi thường cho chị H nữa vì theo người họ hàng làm địa chính của anh T thì anh T không phải bồi thường. Chị H không đồng ý, hai bên đã có lời nói xúc phạm nhau. Anh T nhất quyết mang vụ việc ra tòa án giải quyết. Tổ hòa giải đề ra phương án: Để hai bên suy nghĩ, thương lượng 01 tuần, nếu không được thì đưa vụ việc ra tòa án giải quyết.

Buổi thứ ba, anh T kiên quyết không thay đổi ý kiến. Tổ hòa giải thuyết phục nhưng không thành, hướng dẫn hai bên làm thủ tục để khởi kiện đến tòa án.

Kinh nghiệm:

Về phương thức hòa giải: Tổ hòa giải mới chỉ dùng lý lẽ, chưa áp dụng quy định pháp luật để dẫn chứng, cụ thể là Điều 267 về “Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng” và Điều 268 “Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề” của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Mời thêm thành phần tham gia hòa giải: Tổ hòa giải có thể tìm hiểu nhân thân của người họ hàng làm địa chính của anh T hoặc cán bộ làm công tác địa chính, xây dựng, mời họ tham gia hòa giải, giải thích rõ ràng quy tắc xây dựng và những ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Qua đó, làm rõ mối quan hệ nhân quả trong việc anh T xây nhà 3 tầng và sự nứt tường của nhà chị H. Có như vậy mới thuyết phục được anh T.

Như vậy, với việc vận dụng quy định pháp luật về trách nhiệm trong xây dựng công trình liền kề và mời người có chuyên môn, uy tín tham gia hòa giải nhằm giải thích các vấn đề liên quan một cách chi tiết thì công tác hòa giải sẽ hiệu quả hơn.

(4) Kỹ năng yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc

Để đưa ra lời khuyên (tư vấn) chính xác, đúng pháp luật thì hòa giải viên phải đề nghị đối tượng cung cấp đầy đủ các tài liệu (nếu có) phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp.

Phần lớn các vụ việc tranh chấp thường có các tài liệu như văn bản, thư từ giao dịch...  liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ, tài liệu này là những chứng cứ pháp lý thể hiện nội dung, bản chất của vụ việc hoặc phản ánh diễn biến và quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, có những vụ việc đối tượng chỉ trình bày vụ việc một cách chung chung, chưa muốn cung cấp cho hòa giải viên những văn bản, chứng cứ mà họ cho rằng không có lợi cho mình. Vì vậy, hòa giải viên cần thuyết phục để họ cung cấp đầy đủ. Nếu các bên tranh chấp không cung cấp những tài liệu này thì việc hòa giải khó chính xác và đúng pháp luật.

Sau khi đối tượng đã cung cấp đầy đủ văn bản, tài liệu liên quan, hòa giải viên phải đọc, nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu đó. Trong khi đọc có thể hình thành luôn giải pháp hoà giải trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của vấn đề đưa ra. Đối với những tài liệu mà hòa giải viên không hiểu, không đọc được hoặc có nghi ngờ về tính chân thực của nó thì cần hỏi lại đối tượng để khẳng định ngay. Trong mọi trường hợp, khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho đối tượng thì hòa giải viên không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.

(5) Kỹ năng tra cứu tài liệu tham khảo (Cách tìm văn bản, điều luật áp dụng)

Để đưa ra lời tư vấn pháp luật chính xác, việc tra cứu tài liệu pháp luật trong quá trình hòa giải là điều kiện bắt buộc bởi vì để khẳng định với các bên tranh chấp rằng hòa giải viên đang thực hiện hòa giải theo pháp luật, trên cơ sở pháp luật chứ không theo cảm tính chủ quan, duy ý chí của mình. Ngoài ra, việc tra cứu tài liệu pháp luật có liên quan đến vụ việc hòa giải sẽ giúp hòa giải viên kiểm tra tính chính xác những tư duy và khẳng định chính thức những lời tư vấn của mình là đúng pháp luật vì trong thực tiễn, không phải bao giờ hòa giải viên cũng có thể nhớ chính xác tất cả các quy định thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nếu thấy cần thiết hoặc các bên yêu cầu, thì hòa giải viên có thể cung cấp cho các bên bản sao văn bản, tài liệu đó cùng với lời tư vấn mà mình đưa ra trong trường hợp không tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó thì hòa giải viên có thể chưa đưa ra lời khuyên ngay mà hẹn đối tượng vào một dịp khác để khẳng định lại tính hợp pháp của văn bản pháp luật cần áp dụng.

Trường hợp vụ việc hòa giải có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà hòa giải viên chưa hiểu sâu, thì nên gặp các nhà chuyên môn hay đồng nghiệp khác mà am hiếu sâu về lĩnh vực pháp luật đó để tham khảo ý kiến trước khi đưa ra lời tư vấn, tránh tình trạng hòa giải viên chưa nắm vững pháp luật mà vẫn đưa ra lời tư vấn, giải đáp pháp luật dẫn đến việc hòa giải không chính xác, không đúng pháp luật, trái với nguyên tắc hòa giải, gây hậu quả cho các bên tranh chấp.

Kinh nghiệm: Đối với các tranh chấp thông thường, đó là Bộ luật Dân sự; đất đai có Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn; Hành chính là Luật Xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định xử phạt các lĩnh vực; hình sự Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.

(6) Kỹ năng xem xét, xác minh vụ việc

Việc xem xét, xác minh vụ việc trong hòa giải ở cơ sở chỉ áp dụng đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật hoặc đã được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân giúp đỡ giải quyết mà các bên vẫn không thỏa thuận được với nhau trong cách giải quyết tranh chấp. Việc xem xét, xác minh vụ việc chỉ được tiến hành sau khi đã nghe cả hai bên trình bày, xem xét các giấy tờ, tài liệu các bên cung cấp, hòa giải viên thấy chưa đủ cơ sở để tư vấn, đưa ra những giải pháp, cần phải tiến hành xem xét, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và những người có liên quan để tìm hiểu rõ bản chất vụ việc, tránh vội vàng đưa ra những kết luận phiến diện, chủ quan.

Quá trình xem xét, xác minh vụ việc đòi hỏi hòa giải viên phải thực sự khách quan, vô tư, nhất là khi tiếp xúc với những người có lợi ích liên quan trong vụ việc tranh chấp hoặc thân quen với một bên tranh chấp. Thông thường, những người có lợi ích liên quan đến vụ việc hoặc thân quen luôn bảo vệ việc có liên quan đã làm, nên chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho bên tranh chấp mà họ có liên quan. Vì vậy, hòa giải viên cần khéo léo đề nghị những người có liên quan cung cấp những thông tin, tài liệu chính xác, trung thực. Việc xem xét, xác minh nên lập thành biên bản để làm căn cứ giải thích, thuyết phục các bên tự nguyện hòa giải.

(7) Kỹ năng giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp (Kỹ năng giao tiếp của hòa giải viên)

Giải thích, thuyết phục, cảm hóa, hướng dẫn các bên tự nguyện thỏa thuận, giải quyết tranh chấp là nghệ thuật hòa giải, đòi hỏi hòa giải viên không chỉ có kiến thức pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tranh chấp, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ hòa giải, có uy tín, phẩm chất đạo đức, có tâm và kinh nghiệm cuộc sống mà còn có khả năng vận dụng pháp luật và đạo đức xã hội để giải thích, thuyết phục các bên đi đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp.

- Tỏ ra thông cảm và tôn trọng đối tượng: khi phân tích, giải thích cho các bên biết hành vi của họ là đúng hay sai, hòa giải viên cần phải xây dựng không khí gần gũi và tin tưởng, cảm thông và tôn trọng đối tượng, có thái độ ân cần, chia sẻ, nhiệt tình, cần phải làm cho không khí nói chuyện được vui vẻ, chan hòa. Như vậy, đối tượng sẽ lắng nghe ý kiến thuyết phục của hòa giải viên. Khi thuyết phục đối tượng mà nói được những suy nghĩ băn khoăn của họ thì dễ đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, mọi lý lẽ, thuyết phục của hòa giải viên phải xuất phát từ lập trường của các bên tranh chấp mà suy nghĩ và đặt vấn đề, đưa ra giải pháp tôi ưu cho các bên tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình.

- Khơi gợi cho các bên tranh chấp những tình cảm tốt đẹp vốn có giữa họ như tình cảm gia đình, tình cảm xóm giêng, bạn bè để họ dễ thông cảm cho nhau.

- Đưa ra những chứng cứ, ví dụ cụ thể để minh chứng cho việc phân tích, lập luận của hòa giải viên.

Kiên trì, thuyết phục, không nên nôn nóng: hòa giải viên cần suy nghĩ chín chắn, điều gì nên nói, điều gì không nên nói, ngoài ra còn phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết từng bước, nhất là đối vời những người có thái độ bảo thủ hoặc bất hợp tác.

Mục tiêu đặt ra đối với kỹ năng hòa giải là những lời khuyên thuyết phục và hướng dẫn của hòa giải viên phải được các bên chấp nhận, đồng thuận nghe theo và làm theo bằng việc các bên tự định đoạt giải quyết dứt điểm tranh chấp, lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên một cách tốt nhất.

Làm rõ những mặt lợi và bất lợi nếu để vụ việc mâu thuẩn tiến xa hơn.

Tình huống: Có cặp vợ chồng đã đông đủ cháu nội cháu ngoại nhưng chồng hay say xỉn nên chồng đánh vợ như cơm bữa. Hòa giải viên phải đến tận nhà để nói chuyện với ông chồng, lúc đến thì bát đũa, nồi niêu đang vứt loẻng xoẻng ngoài sân vì ông ta vừa say rượu và đánh vợ xong. Biết tình thế không thể ngồi nói chuyện phân bua khúc mắc giữa hai vợ chồng này, hòa giải viên đã đưa pháp luật phòng chống bạo lực gia đình ra để phân tích mức độ vi phạm nặng nhẹ. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ phân tích gãy gọn, ông chồng đã nhận lỗi và hứa sẽ không đánh vợ nữa.

Kết luận: Những kỹ năng trên đây cần phải rèn luyện và đòi hỏi hòa giải viên phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức bằng nhiều hình thức.

          B. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ

I. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1. Khái niệm, những trường hợp thừa kế theo pháp luật, người thừa kế theo pháp luật

- Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: Không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

(Trong quá trình xây dựng dự thảo, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm vào hàng thừa kế này đối tượng là con dâu, con rể vì đây là những người có đóng góp trực tiếp vào cuộc sống của gia đình, đặc biệt là con dâu. Tuy nhiên, do còn những bất cập (chủ yếu các vấn đề nảy sinh gây chia rẻ trong gia đình) nên luật không đưa vào).

+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

- Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

2. Quan hệ thừa kế trong một số trường hợp đặc biệt

- Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định.

- Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về thừa kế thế vị, thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

- Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác: Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Ông A và bà B là vợ chồng. ông bà có 2 người con: Con trai là C và con gái là D. Anh C kết hôn với chị Đ và sống cùng ông bà AB trên mảnh đất của ông bà rộng 360m2. Chị C đi làm ăn xa và lấy chồng ở tỉnh khác. Năm 1973 ông A mất. Bà B ủy quyền cho con trai là ông C đứng tên trên sổ địa chính để sử dụng mảnh đất này từ năm 1983 và cũng đồng ý cho ông C, chị D (con gái ông bà) không có ý kiến gì. Vợ chồng ông CĐ xây dựng nhà cửa gồm một ngôi nhà hai tầng để ở. Thời gian gần đây, ông C tiến hành làm sổ đỏ mang tên ông. Trong quá trình làm thì bà D ở xa về không đồng ý và đòi chia đất.

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THỪA KẾ

Do không nêu rõ mảnh đất này có trước khi kết hôn hay sau khi kết hôn, nên có 02 trường hợp: Mảnh đất này thuộc tài sản riêng của ông A hoặc mảnh đất thuộc tài sản chung của vợ chồng ông A bà B.

Trường hợp 1:

Nếu mảnh đất được xác định là tài sản riêng của ông A thì toàn bộ diện tích đất được xác định là khối di sản thừa kế của ông A để lại. Do ông A không để lại di chúc nên khối di sản trên được chia theo pháp luật, tức là chia theo hàng thừa kế. Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hàng thừa kế như sau (quy định về hàng thừa kế trong BLDS 2005 giống BLDS 2015):

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Theo quy định trên, bà B, ông C, bà D thuộc hàng thừa kế thứ nhất, do vậy sẽ được hưởng khối di sản bằng nhau, nghĩa là mỗi người được hưởng: 360m2/3 = 120m2.

Ông C được nhận: 120m2 (diện tích đất ông được thừa kế từ cha) + 120m2 (đất bà B nhận thừa kế từ ông A và tặng cho ông C) = 240m2.

Trường hợp thứ 2:

Nếu mảnh đất là tài sản chung của ông A bà B thì di sản ông A để lại chỉ là ½ mảnh đất, ½ còn lại thuộc quyền sử dụng của bà B. Theo đó, nếu chia theo pháp luật, phần di sản mà mỗi người được hưởng từ ông A là: (360/2)/3 = 60m2.

Trong trường hợp này, diện tích đất ông C có quyền sử dụng là 60m2 (thừa kế từ cha) + 60m2 (bà B thừa kế của ông A và tặng cho ông C) + 180m2 (1/2 mảnh đất thuộc quyền sử dụng của bà B trong khối tài sản chung và cho ông C) = 300m2.

Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng ông A mất năm 1973, theo BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó). 

II. THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1. Khái niệm di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

2. Người lập di chúc

Người thành niên có đủ điều kiện: Minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép, có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Người lập di chúc có quyền sau đây:

+ Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

+ Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

+ Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

+ Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

+ Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

3. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

a) Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp lập di chúc bằng đánh máy (trước đây chỉ có có viết tay), cụ thể: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định về nội dung di chúc.

 Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. So với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 đã quy định toàn diện, đầy đủ hơn về trường hợp “người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

- Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực: Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc. Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

+ Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

+ Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực, cụ thể: Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp “di chúc của người đang bị tạm giữ”.

b) Di chúc miệng

Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

4. Di chúc hợp pháp

Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện nêu trên.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

5. Nội dung của di chúc

Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: Ngày, tháng, năm lập di chúc; Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

6. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc; gửi giữ di chúc; di chúc bị thất lạc, hư hại

Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về công chứng. Người giữ bản di chúc có nghĩa vụ: Giữ bí mật nội dung di chúc; giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc; giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp: Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

7. Hiệu lực của di chúc

Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:

- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.

8. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.

 Quy định nêu trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định.

9. Di sản dùng vào việc thờ cúng

Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

10. Di tặng

Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm điều kiện “người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế’.

Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

11. Công bố di chúc và giải thích nội dung di chúc

Trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc. Trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.

Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.

Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực. So với Bộ luật năm 2005, Bộ luật năm 2015 sửa đổi quy định về việc giải quyết khi không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong khi Bộ luật năm 2005 quy định: “Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật”.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THỪA KẾ

Ví dụ: Hai cha con ông A và ông B chở nhau đi trên đường thì bị tai nạn giao thông qua đời cùng một lúc. Việc thừa kế của cha và con được hiểu như thế nào? Người con có được thừa kế của người cha không và ngược lại?.

Nếu ông B (người con) có 01 con trai nhỏ. Cháu trai này có được thừa kế tài sản từ người ông không?

1. Người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm; từ chối nhận di sản; người không được quyền hưởng di sản; tài sản không có người nhận thừa kế

a) Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm

Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định.

Thừa kế thế vị: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

b) Từ chối nhận di sản

Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

 Bộ luật năm 2015 nêu rõ: Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến (trước đây chỉ yêu cầu thông báo) người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

c) Người không được quyền hưởng di sản

Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Những người trên đây vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

d) Tài sản không có người nhận thừa kế

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.

2. Quyền thừa kế; thời điểm, địa điểm mở thừa kế và di sản

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bổ sung quy định mới: Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

 Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định theo quy định.

Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

3. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

4. Người quản lý di sản

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định nêu trên thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Người quản lý di sản (không phải là cơ quan nhà nước) có nghĩa vụ sau đây:

+ Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

+ Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có nghĩa vụ sau đây:

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

+ Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Bên cạnh các nghĩa vu, người quản lý di sản có các quyền sau đây:

Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra; cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý  có quyền sau đây:

+ Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản có quyền sau đây:

+ Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

+ Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

+ Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

5. Thời hiệu thừa kế

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật năm 2015 có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Quy định gặp vướng mắc khi thực hiện trên thực tế vì thời hiệu khởi kiện 10 năm là quá ngắn để thực hiện quyền khởi kiện. Do đó, quyền lợi của người thừa kế tài sản không được pháp luật bảo vệ. Để được hưởng di sản thừa kế, không ít đương sự đã có những hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội. Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định cụ thể phương án xử lý những di sản thừa kế khi hết thời hiệu 10 năm nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý cũng như số phận thực tế của những di sản này.

Từ bất cập trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra quy định mới về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Cụ thể: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.

+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định trên đây.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

IV. THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

1. Họp mặt những người thừa kế

Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây: Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; cách thức phân chia di sản. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

2. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Bộ Luật năm 2015 sửa đổi về thứ tự ưu tiên thanh toán đối với trường hợp “Chi phí cho việc bảo quản di sản”. Nội dung này được Bộ luật năm 2005 xếp vị trí thứ 9, Bộ luật năm 2015 xếp vị trí thứ 3; sửa đổi, bổ sung chi phí “Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước” thành “Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước”.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

(1) Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

(2) Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

(3) Chi phí cho việc bảo quản di sản.

(4) Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

(5) Tiền công lao động.

(6) Tiền bồi thường thiệt hại.

(7) Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

(8) Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

(9) Tiền phạt.

(10) Các chi phí khác.

3. Phân chia di sản

a) Phân chia di sản theo di chúc

Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

b) Phân chia di sản theo pháp luật

Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

c) Hạn chế phân chia di sản

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Bộ luật năm 2015 bổ sung thêm trường hợp được gia hạn và không hạn chế đối với trường hợp đã kết hôn, cụ thể: Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm (Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế).

d) Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

 

 

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Tiếp nhận ý kiến