Tìm kiếm tin tức

 

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Thống kê lượt truy cập
Tổng truy cập 3.387.603
Truy cập hiện tại 26.121
QUYỀN DÂN SỰ VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Ngày cập nhật 11/09/2020

QUYỀN DÂN SỰ VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

 

Từ thời cổ đại, hôn nhân và gia đình luôn đóng một vai trò quan trọng trong hình thành, nuôi dưỡng và phát triển nhân cách con người, là nơi hội tụ các giá trị đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống và hiện đại. Bất kỳ một cá nhân nào với tư cách là chủ thể cơ bản của xã hội đều mang dấu ấn từ gia đình.

Gia đình hình thành, tồn tại và phát triển vì nó mang những chức năng tự nhiên và xã hội riêng biệt mà các thiết chế xã hội khác không có. Các chức năng của gia đình hình thành gắn liền với sự phát triển của loài người và được chính con người xã hội hóa chúng. Về cơ bản, gia đình có ba chức năng: Sinh đẻ (tái sản xuất con người), giáo dục và kinh tế, các chức năng này là cơ sở để hình thành các quyền tự nhiên của con người về gia đình và được xã hội hóa thành các quyền cơ bản của công dân:

– Chức năng sinh đẻ hay tái sản xuất con người là chức năng quyết định trong việc đảm bảo duy trì, phát triển các thế hệ tương lai – một trong những yếu tố quyết định sự tồn vong của một dân tộc, một quốc gia và của loài người. Từ chức năng này, quyền được sinh con, quyền được thừa nhận là cha, mẹ, con, quyền nuôi con nuôi, quyền được hưởng các chế độ phúc lợi về thai sản… đã được hình thành và được công nhận và bảo vệ;

– Chức năng giáo dục là chức năng rất quan trọng của gia đình trong hình thành, phát triển nhân cách của các thế hệ trong gia đình, đặc biệt thế hệ trẻ. Ngoài ra, nó còn giúp nuôi dưỡng, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống trong gia đình và xã hội. Nhân cách, khả năng ứng xử và khả năng thích ứng của mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng lớn từ giáo dục gia đình. Từ chức năng giáo dục đã xác lập các quyền được chăm sóc, giáo dục, đại diện và bảo vệ của các thành viên trong gia đình….;

– Chức năng kinh tế gắn liền với vai trò của gia đình như là một đơn vị kinh tế cơ bản, độc lập của xã hội. Nó giúp cho gia đình tạo dựng cơ sở vật chất đảm bảo cuộc sống của các thành viên. Các chức năng sinh đẻ và giáo dục cũng không thể thực hiện tốt nếu không gắn liền với chức năng kinh tế. Từ chức năng kinh tế, các quyền về sở hữu, thừa kế, tham gia giao dịch… đã được hình thành, được công nhận và bảo vệ.

Trên thực tế, nhiều quyền con người, quyền dân sự cơ bản cũng hình thành hoặc chịu tác động từ sự tổng hợp của ba chức năng nói trên, như quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền cư trú, các quyền về nhân thân, quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền trong hôn nhân và gia đình…

Như vậy, quyền con người về hôn nhân và gia đình hình thành từ chính quá trình gia đình hình thành và thực hiện các chức năng xã hội cơ bản của nó.

Hiện nay, quyền con người về hôn nhân và gia đình đã công nhận rộng rãi trên toàn thế giới như là bộ phận cấu thành cơ bản nhất trong nhóm quyền con người về dân sự nói riêng, quyền con người nói chung. Tôn trọng, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình đã thực sự là tiêu chí để đánh giá tiến bộ xã hội không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang tính toàn cầu. Trên thực tế, Liên hợp quốc đã ban hành nhiều công ước trực tiếp hoặc gián tiếp về công nhận, thực thi và bảo vệ loại quyền con người này: Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966), Công ước chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW)…

I. Đặc điểm quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam

Ở Việt Nam, trong lịch sử và hiện tại, gia đình đã luôn được xác định là thiết chế xã hội rất quan trọng – Tế bào của xã hội. Do vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, chế độ xã hội nào, gia đình luôn được Nhà nước quan tâm tác động bằng chính sách, điều chỉnh bằng pháp luật. Quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam cũng được đặt trong tiến trình đó và mang những đặc điểm cơ bản sau:

* Thứ nhất, mức độ công nhận và thực thi quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào bản chất của chế độ xã hội qua mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.

Dưới các chế độ cũ (phong kiến, thực dân), quyền con người về hôn nhân và gia đình được xác định theo giáo lý nho giáo. Do vậy tư tưởng “phụ quyền” và “gia trưởng” là nguyên tắc chủ đạo trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Quyền được xác lập và ưu tiên cho người đàn ông: Cha, chồng, con trai…, quyền và nghĩa vụ của người phụ nữ: mẹ, vợ, con gái . . . mang tính phụ thuộc vào lợi ích của người đàn ông trong gia đình. Mặt khác, quyền về hôn nhân và gia đình trong các chế độ xã hội này xác định theo nguyên tắc phụ thuộc về thứ bậc “trên dưới”: phụ – tử, huynh – đệ. Trong đó, quyền của người thuộc bậc dưới cũng phụ thuộc vào lợi ích của người thuộc bậc trên.

Dưới chế độ của Nhà nước ta hiện nay, quyền con người về hôn nhân và gia đình (quyền kết hôn, ly hôn, nhóm quyền được làm cha, làm mẹ và làm con, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền đại diện, quyền về nơi cư trú, quyền xác định họ, tên, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch, quyền về lao động, tư do kinh doanh…) đã trở thành một trong các quyền cơ bản nhất của cá nhân được pháp luật ghi nhận trong Hiến pháp, các văn bản luật có liên quan. Nguyên tắc cơ bản trong công nhận và bảo đảm thực thi quyền con người về hôn nhân và gia đình là bình đẳng, không phân biệt đối xử, kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

* Thứ hai, quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam thường được đặt trong lợi ích chung của gia đình và xã hội.

Việt Nam là một đất nước nông nghiệp ở phương Đông thuộc nền văn minh lúa nước – nền văn minh gắn chặt gia đình trong vai trò là đơn vị xã hội cơ bản. Kết cấu chặt chẽ gia đình – làng xã – Nhà nước đi liền với toàn bộ tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Do đó, khác với người phương Tây thường đề cao tự do cá nhân còn gia đình nhiều khi xếp vào hàng thứ yếu, người Việt Nam và một số nước Á Đông khác mỗi cá nhân gắn bó chặt chẽ với một gia đình, làng xã được cấu thành bởi sự tập hợp nhiều gia đình và gia đình là tế bào của xã hội. Quyền của cá nhân về hôn nhân và gia đình vì thế thường bị hạn chế bởi lợi ích của gia đình và xã hội. Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành của Việt Nam ghi nhận một nguyên tắc trong phương pháp điều chỉnh của luật là “các chủ thể thực hiện quyền trên cơ sở lợi ích chung của gia đình”. Trong thực tiễn cuộc sống, một người phụ nữ Việt Nam hiện đại khi cần cân nhắc giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của gia đình, thì lựa chọn lợi ích gia đình vẫn mang tính phổ biến.

Đặc điểm này cho thấy, ở Việt Nam nếu công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình như quyền cơ bản của cá nhân mà không có sự quan tâm về mặt pháp luật, chính sách đối với vai trò của gia đình, thì quyền con người về hôn nhân và gia đình mới chỉ dừng lại ở tính chất tuyên ngôn mà chưa thể sự tiếp nhận quyền cụ thể trên thực tế.

* Thứ ba, quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam không phải là điều “mới lạ” so với nền văn hóa truyền thống của Việt Nam, nhưng cũng có sự “xung đột” nhất định bởi yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng.

Dân tộc Việt Nam dù bất cứ giai đoạn lịch sử nào, truyền thống tôn trọng phụ nữ, đề cao tình cảm trong gia đình là một nét văn hóa không thay đổi. Chúng ta là một trong số ít dân tộc có tục thờ mẹ, người dân luôn thể hiện khát vọng mong muốn được hưởng quyền dân chủ hơn, bình đẳng hơn trong gia đình, một loạt các bài thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, hay các câu ca dao, tục ngữ “thuận vợ, thuận chồng tát bể đông cũng cạn”, “của chồng, công vợ”, “râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật gù khen ngon”… đã phản ánh phần nào truyền thống tốt đẹp đó. Do vậy, xét ở khía cạnh thích ứng văn hóa, người dân Việt Nam dễ tiếp nhận hơn quyền con người về hôn nhân và gia đình, đặc biệt các quyền liên quan đến vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng là đất nước cũng chịu ảnh hưởng bởi tôn giáo, và tín ngưỡng. Trong suốt các triều đại phong kiến Việt Nam, tư tưởng nho giáo đã được du nhập và đề cao. Trong đó, đức hy sinh của người phụ nữ vì gia đình, sự phụ thuộc giữa các thế hệ, sự trọng nam – khinh nữ … là một trong các nội dung cơ bản. Quan niệm “phu xướng, phụ tùy”, “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “trai năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”… đã trở thành nguyên tắc phổ biến về ứng xử và xác định quyền trong gia đình truyền thống ở Việt Nam. Ngoài ra, cùng với sự xuất hiện giao lưu Đông – Tây, đặc biệt ở giai đoạn thuộc Pháp, đạo Cơ đốc đã xuất hiện và có ảnh hưởng ở nhiều vùng, địa phương của Việt Nam. Giáo lý nhà thờ cũng có những tác động không nhỏ đến thực thi quyền con người, đặc biệt các quyền về kết hôn, ly hôn… ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng đã và đang là những rào cản rất lớn trong việc thực thi và bảo vệ các quyền cá nhân của thành viên gia đình.

* Thứ tư, quyền con người về hôn nhân và gia đình gắn bó chặt chẽ với các quyền con người về dân sự và chính trị khác

Thực tế nhiều quyền con người về hôn nhân và gia đình chỉ thực hiện được trên thực tế ở Việt Nam nếu các quyền dân sự, chính trị khác đã được công nhận và thực thi cho các thành viên gia đình. Ví dụ: quyền tự do lựa chọn nơi ở, nghề nghiệp, kinh doanh của người vợ chỉ có thể thực hiện khi trước hết nó là quyền cơ bản của công dân được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ.

Do vậy, khi công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình phải gắn liền chặt chẽ quyền này với các quyền con người về dân sự, chính trị khác như là sự tương hỗ, điều kiện cần cho quyền con người về hôn nhân và gia đình.

II. Quyền con người về hôn nhân và gia đình trong pháp luật Việt Nam hiện hành

1. Cơ chế bảo đảm công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam

Thực tiễn xã hội và pháp lý ở Việt Nam cho thấy, công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình là mục tiêu và nguyên tắc cơ bản, nhất quán trong chính sách về gia đình của Đảng và Nhà nước ta. Nó đã và đang được bảo đảm thực hiện theo các cơ chế sau:

1.1. Công nhận và bảo hộ chính thức bằng hệ thống nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam và hệ thống pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam

– Các nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam đều ghi nhận về tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, ngày 21/2/2005, Ban bí thư TƯ Đảng đã có Chỉ thị số 49-CT/TW về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong đó nêu rõ tình hình bạo lực gia đình gia tăng làm ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và một trong những quan điểm chỉ đạo làxây dựng và hoàn thiện pháp luật về .. dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội….

– Việt Nam là thành viên tích cực của Liên hợp quốc trong việc tham gia và công nhận các công ước quốc tế trực tiếp hoặc gián tiếp về quyền con người nói chung, quyền con người về hôn nhân và gia đình nói riêng: Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW)… Việt Nam cũng đã và đang từng bước nội luật hóa các công ước này vào pháp luật của Việt Nam (trên thực tế nhiều quyền con người về hôn nhân và gia đình đã được thừa nhận trong pháp luật Việt Nam trước khi Việt Nam là thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người)

– Trong hệ thống pháp luật của mình, Việt Nam đã tích cực xây dựng hệ thống qui phạm pháp luật đa dạng ở nhiều cấp độ, nhiều lĩnh vực khác nhau về quyền con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói riêng: Hiến pháp năm 2013 (trước đó là các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992), Bộ luật dân sự năm 2005 (trước đó là Bộ luật dân sự năm 1995), Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (trước đó là Luật hôn nhân và gia đình các năm 1959 và 1986, 2000), Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 (trước đó là Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991), Bộ luật hình sự năm 1999 (trước đó là các Bộ luật hình sự năm 1985 và các bộ luật hình sự sửa đổi), pháp luật về xử phạt hành chính, Luật bình đẳng giới năm 2006, Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007…

1.2. Xây dựng hệ thống các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người trong hôn nhân và gia đình:

– Quốc hội ban hành pháp luật về quyền con người nói chung, quyền con người trong hôn nhân và gia đình nói riêng;

– Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm hướng dẫn và thực hiện trên thực tế vai trò quản lý Nhà nước các hoạt động công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình; Các cơ quan trực thuộc chính phủ, Ủy ban nhân dân (Bộ tư pháp, Bộ Công An, Bộ Y tế, Bộ Lao động, thương binh và xã hội và các sở chuyên ngành…) thực hiện việc công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình;

– Các cơ quan tư pháp (Điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) chịu trách nhiệm xử lý các hành vi vi phạm quyền con người về hôn nhân và gia đình theo pháp luật hình sự hoặc pháp luật dân sự.

1.3. Xây dựng cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa nhà nước với các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng trong công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình. Trong đó vai trò của các tổ chức và cộng đồng đóng vai trò rất quan trong phổ biến, tuyên truyền, giao dục về quyền con người trong hôn nhân và gia đình, phát hiện các hành vi vi phạm quyền con người về hôn nhân và gia đình, cùng tham gia giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền con người trong phạm vi cộng đồng;

1.4. Xây dựng cơ chế về tuyên truyền, phổ biến và giáo dục về quyền con người trong hôn nhân và gia đình nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của toàn xã hội;

1.5. Xây dựng cơ chế bảo đảm về chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đối với công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình.

2. Những nội dung cơ bản về quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình theo Pháp luật Việt Nam hiện hành

2.1. Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền kết hôn của công dân

a) Cá nhân đủ điều kiện kết hôn có quyền tự do kết hôn ở Việt Nam. Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định. Các hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc cảm trở trong kết hôn bị nghiêm cấm và bị xử lý pháp luật (dân sự, hành chính, hình sự) theo hành vi và mức độ vi phạm;

Điều kiện kết hôn: (1) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; (2) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; (3) Không bị mất năng lực hành vi dân sự; (4) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn (Kết hôn giả tạo ; Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn ; Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ ; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng).

Cấm người mắc bệnh tâm thần kết hôn, liệu có vi phạm quyền con người? “Cần phải nhìn nhận dưới lăng kính là một con người, dù có phải là con người hoàn chỉnh hay không thì họ cũng có nhu cầu cần được đáp ứng và tôn trọng. Hơn thế nữa chắc gì người mắc bệnh tâm thần nào cũng đều sinh ra một thế hệ không khoẻ mạnh?”. Tuy nhiên,  dẫu là quyền con người thì nhiều khi luật vẫn phải có sự can thiệp để bảo đảm quyền đó được thực hiện tốt hơn. “Quy định cấm người tâm thần kết hôn là rất nhân đạo. Nói về hậu quả của những cuộc kết hôn này, đúng là không phải cặp nào cũng sinh ra những đứa con không bình thường, nhưng ngay cả khi đứa trẻ sinh ra bình thường thì trong quá trình ứng xử của người mẹ hay người bố bị tâm thần về lâu dài nhất định sẽ ảnh hưởng tới thể lực và trí lực của con. Một bà mẹ tâm thần khi lên cơn có thể bóp chết đứa con mà không ai có thể lường trước được...”. Luật chỉ quy định cấm người tâm thần kết hôn chứ không phải cấm quan hệ tình dục.  

Anh M., trú tại phường Láng Hạ (Q. Cầu Giấy, Hà Nội) bị mắc bệnh tâm thần nhưng bề ngoài vẫn giao tiếp, ăn nói bình thường. Gia đình cũng biết tình trạng sức khỏe của anh nhưng vẫn quyết tìm vợ cho M. với hy vọng biết đâu khi có vợ, bệnh tình sẽ khỏi. Tuy nhiên, mỗi lần gần gũi vợ, tâm thần của M. lại bị kích động cao độ rồi anh chui tọt xuống gầm giường để lẩn tránh. Cứ như thế, sau 4 tháng về nhà chồng, vợ M. vẫn là “con gái”. Không thể chấp nhận tình trạng như vậy, vợ M. gửi đơn ly hôn với lý do chồng mắc bệnh tâm thần. Tuy nhiên, M. và gia đình anh nhất quyết không chịu chấp nhận ly hôn cũng không chịu đi khám theo yêu cầu của cơ quan chức năng. “Không biết làm gì hơn, chúng tôi đành phải đưa cán bộ y tế vào tận gia đình M. để thẩm định và đưa ra kết quả. Chỉ khi ấy chúng tôi mới giải quyết được vụ ly hôn này”, ông Phạm Xuân Phương, Phó Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội kể một câu chuyện có thực.

Một gia đình tại Hà Nội có người con trai độc nhất đang học năm thứ 3 Đại học Bách Khoa thì bỗng dưng mắc chứng tâm thần. Thương con, xót cảnh về già không ai chăm sóc, qua mai mối, bố mẹ cậu tìm được cho con trai một cô vợ ở tỉnh lẻ. Tưởng chừng gia đình tới đó cũng được êm ấm, nhất là khi người vợ sinh hạ được bé trai khỏe mạnh. Không ai ngờ, vào một đêm, trong lúc lên cơn, người chồng đã rút gậy quật chết vợ. Sau cái chết của con dâu, bà mẹ chồng cũng đột tử vì quá sốc, anh chồng vào trại tâm thần, cháu bé phải đưa vào trại mồ côi...

b) Pháp luật không phân biệt đối xử trong kết hôn. Cá nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn thì có quyền kết hôn không phụ thuộc vào địa vị, thành phần xã hội, giới tính, dân tộc, tôn giáo và quốc tịch. Trên thực tế hôn nhân trộn lẫn các yếu tố địa vị, thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo và quốc tịch là rất phổ biến ở Việt Nam và được pháp luật bảo vệ. Riêng quyền kết hôn của những người cùng giới Nhà nước Việt Nam chưa thừa nhận vì yếu tố văn hóa và tính tự nhiên trong quan hệ hôn nhân;

“Có người bảo thừa nhận hôn nhân đồng giới sẽ ảnh hưởng đến xã hội. Nhưng không thừa nhận còn ảnh hưởng hơn rất nhiều. Hàng triệu gia đình sẽ có vợ hoặc chồng là người đồng tính, thử hỏi có bao nhiêu người dị tính muốn lập gia đình với người đồng tính. Bởi khi không được thừa nhận, họ sẽ phải tìm bình phong bằng cách lập gia đình với người khác giới. Lập gia đình khi không hề có tình yêu họ sẽ vẫn duy trì những mối quan hệ đồng tính của mình. Hôn nhân của họ sẽ không hạnh phúc hoặc rất dễ đổ vỡ”,

“Con người không có khả năng lựa chọn giới tính của mình khi sinh ra, mà do bẩm sinh. Những người đồng tính không có lỗi trong xu hướng tình dục của mình, họ có thể cần được thông cảm, giúp đỡ từ gia đình, bạn bè, xã hội, cần được sự bảo vệ của pháp luật đối với những quyền con người tự nhiên của mình. Tuy nhiên, bảo vệ quyền lợi của họ là không ngăn cấm việc họ sống chung. Nhưng không thừa nhận hôn nhân”. Ngoài những người đồng tính thật (do cấu trúc gen bẩm sinh) còn có những người đồng tính giả (những người đồng tính do bị chi phối bởi lối sống, sự đua đòi, bắt chước kiểu sống khác lạ). Khi chưa có cơ sở, hiểu biết thấu đáo về quan hệ tình dục cùng giới tính để phân biệt rõ đâu là đồng tính thật, đâu là đồng tính giả thì chưa thể điều chỉnh luật. Hôn nhân đồng tính sẽ ảnh hưởng đến việc “duy trì nòi giống” và nuôi dạy con cái.

Theo Wikipedia, một nghiên cứu do tổ chức phi chính phủ CARE thực hiện ước tính Việt Nam có khoảng 50 - 125.000 người đồng tính, chiếm khoảng 0,06-0,15% dân số.

Trong xã hội hướng đến quyền bình đẳng con người, một số trong chúng ta vẫn vô tình sử dụng nhầm lẫn những từ ngữ miệt thị cộng đồng LGBT (người đồng tính, song tính và hoán tính/chuyển giới) trong ngôn ngữ nói và thậm chí là ngôn ngữ viết. Đây không phải là bệnh, đó là thiên hướng tình dục.

Đồng tính là gì? Chúng ta chưa có khái niệm, định nghĩa rõ ràng, cụ thể về vấn đề này. Qua các tài liệu khoa học, phân biệt như sau:

- Dị tính: Những người bị thu hút bởi người khác giới.

- Đồng tính: Những người bị thu hút bởi người cùng phái. Nam với nam gọi là gay, nữ với nữ gọi là les.

- Song tính: Những người bị thu hút cả về thể xác và tinh thần bởi cả 2 giới. Lúc này yêu cô gái, thời điểm khác yêu chàng trai, có lúc yêu cả 2 giới cùng lúc.

- Vô tính: Những người không mong muốn gần gủi về mặt thể xác với bất kỳ ai dù rung động về mặt ý thức.

- Giới tính thứ 3: Những người có tâm lý không giống với người đồng tính. Ví dụ: Tâm hồn đàn ông trong cơ thể phụ nữ. Không nên sử dụng cách gọi miệt thị: Pê-đê (nam nhưng có vẻ ngoài yểu điệu giống phụ nữ); ô môi (nữ có vẻ ngoài bụi bặm, nam tính). Đây là những từ có nguồn gốc từ tiếng Pháp nhưng có ý miệt thị. Từ ngữ mang tính miệt thị đối với đồng tính nam: Bóng, bóng kín, bóng lộ; bóng lộ là thể hiện ra ngoài sự nữ tính (ăn mặc, trang điểm), bóng kín (không phô bày con người thật ra ngoài). Những người này có nhu cầu chuyển đổi giới tính.

Rõ ràng, việc phân biệt “đồng tính” một cách rạch ròi khá phức tạp. Khi bàn về vấn đề này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói, “đến tôi hôm nay chưa hiểu đồng tính có những trạng thái gì”. Vậy nên, Luật năm 2014 quy định “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Luật năm 2000 cứng rắn “Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”. Quy định của Luật năm 2014 được đánh giá là “một bước ngoặc” trong nhận thức, tư duy của chúng ta, vì đây là một vấn đề rất lớn, rất nhạy cảm, mà phần đông xã hội nước ta chưa chấp nhận được. Ngoài ra, chúng ta cũng không công nhận việc chuyển đổi giới tính (phẩu thuật từ nam thành nữ hoặc ngược lại), chỉ thừa nhận việc xác định lại giới tính (những trường hợp có khiếm khuyết bộ phận sinh dục).

c) Để bảo thực chất của quan hệ hôn nhân, loại trừ định kiến xã hội theo quan niệm “trai năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận quan hệ hôn nhân 1 vợ – 1 chồng, các hành vi “đa thê” hoặc “đa phu” bị nghiêm cấm. Ngoại trừ, các trường hợp do hậu quả của chế độ cũ để lại (chế độ hôn nhân 1 vợ – 1 chồng dưới chế độ XHCN được thiết lập ở Việt Nam từ sau ngày 13/1/1960 ở miền Bắc XHCN và được áp dụng thống nhất trong cả nước từ ngày 25/3/1977).

- Đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10: Quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn đối với những trường hợp này không bị hạn chế về mặt thời gian. Ngày công nhận quan hệ hôn nhân trong trường hợp này được tính từ ngày các bên xác lập quan hệ vợ chồng.

- Hoàn cảnh đặc thù: Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của Toà án Nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ lấy chồng khác: Trước ngày 13/01/1960 - ngày công bố Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc, trước ngày 25/03/1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và, ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả người vợ.    

2. Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân

Để thực hiện quyền cơ bản của công dân, cũng như nhằm loại trừ định kiến xã hội trong xác định vai trò của người vợ trong gia đình “thuyền theo lái, gái theo chồng”, pháp luật Việt Nam công nhận và bảo vệ quyền bình đẳng giữa vợ và chồng về hôn nhân và tài sản:

– Vợ, chồng được tự do lựa chọn về nơi cư trú, dân tộc tộc, quốc tịch và tôn giáo. Nguyên tắc phụ thuộc nhau không áp dụng trong quan hệ hôn nhân ở Việt Nam. Đặc biệt người phụ nữ tự quyết định về nơi ở, dân tộc, quốc tịch và tôn giáo cho mình mà không phụ thuộc quyết định của người chồng. Tuy nhiên pháp luật khuyến khích sự đồng thuận của vợ chồng khi thực thi quyền này;

– Quyền “gia trưởng” của người chồng trong gia đình đã bị phủ nhận bằng việc pháp luật cho phép vợ, chồng đều có quyền đại diện cho nhau và đại diện cho gia đình theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Quyền đại diện của người vợ trong các quan hệ hôn nhân và gia đình là bình đẳng không bị phân biệt;

– Vợ, chồng có bình đẳng trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự và vợ chồng đang là người giám hộ. Quan niệm nội trợ và nuôi con là nghĩa vụ của người phụ nữ đã được thay thế bằng nghĩa vụ chung của hai vợ chồng. Đối với thiên chức làm mẹ của người mà người chồng không thể thay thế thì pháp luật yêu cầu người chồng phải tạo điều kiện cho người vợ thực hiện thiên chức đó;

– Vợ, chồng bình đẳng trong tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Pháp luật không phân biệt chức năng kinh tế do chồng hay vợ thực hiện mà đó là trách nhiệm chung của hai vợ chồng.Trong trường hợp vì lý do giới tính, sức khỏe, nghề nghiệp, mức thu nhập mà công sức đóng góp ít hơn thì cũng không làm giảm hoặc mất quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung, lao động trong gia đình được tính ngang với lao động tạo ra của cải, vật chất. Trong các giao dịch có đối tượng là tài sản chung thì vợ chồng bình đẳng với nhau khi tham gia giao dịch, đối với giao dịch có giá trị tài sản chung lớn, tài sản chung đưa vào kinh doanh, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của hai vợ chồng. Pháp luật thừa nhận quyền đại diện của vợ, chồng cho nhau trong xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch. Trong trường hợp có lý do chính đáng, pháp luật cho phép vợ chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân;

– Để tôn trọng quyền tự do cá nhân và sự độc lập nhất định của vợ, chồng, pháp luật thừa nhận vợ, chồng có quyền sở hữu tài sản riêng đối với những tài sản riêng họ có trước khi kết hôn, tài sản họ được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, đồ dùng, tư trang cá nhân, tài sản khác theo qui định pháp luật… Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng mà không phụ thuộc vào ý chí của chồng, vợ mình. Tuy nhiên, quyền của vợ, chồng có tài sản riêng có thể bị hạn chế vì lợi ích chung của gia đình;

– Vợ, chồng bình đẳng trong thừa kế và thừa kế di sản của nhau. Vợ, chồng có quyền để lại di sản và tự quyết định theo ý chí của mình về định đoạt di sản. Vợ, chồng cũng có quyền hưởng thừa kế di sản của nhau theo pháp luật hoặc theo di chúc. Nếu hưởng thừa kế theo pháp luật họ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nhau. Nếu người vợ, chồng lập di chúc không cho chồng hoặc vợ minh được hưởng thừa kế thì người bị truất quyền vẫn có thể được hưởng 2/3 suất theo luật (nếu di sản được chia theo pháp luật), trừ khi họ thuộc diện pháp luật tước quyền thừa kế hoặc chính họ từ chối nhận di sản;

– Vợ chồng cũng phải thực hiện cấp dưỡng cho nhau khi ly hôn, trong đó một bên do điều kiện sức khỏe, không có thu nhập, tài sản để tự nuôi mình và bên kia có đủ khả năng kinh tế thì phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Pháp luật công nhận và bảo vệ quyền ly hôn của vợ chồng

– Theo pháp luật Việt Nam hiện hành ly hôn là quyền tự do cá nhân của vợ, chồng. Vợ chồng có quyền yêu ly hôn khi thấy tình cảm giữa vợ chồng không còn và việc duy trì hôn nhân là không cần thiết và không có lợi cho gia đình. Việc ly hôn chỉ bị hạn chế trong trường hợp người chồng có yêu cầu ly khi người vợ đang mai thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Mục đích của qui định này là gắn trách nhiệm của người chồng trong việc tạo điều kiện cho người vợ thực hiện chức năng làm mẹ. Quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ không bị hạn chế ngay cả khi đang mai thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Vợ chồng đã ly hôn được tự do về nhôn nhân có quyền kết hôn với người khác mà không phải chịu ràng buộc nào đối với quan hệ hôn nhân đã chấm dứt;

Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:

+ Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

+ Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Đây là quy định mới được bổ sung.

+ Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Các trường hợp ly hôn

+ Thuận tình ly hôn: Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.

+ Ly hôn theo yêu cầu của một bên: Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

  Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

+ Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

+ Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

+ Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

 Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như đã nêu trên đây. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.

  Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.

– Nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người vợ và con chưa thành niên là nguyên tắc cơ bản trong giải quyết ly hôn nhằm mục đích giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của ly hôn đối với các chủ thể này;

– Công nhận nguyên tắc bình đẳng trong phân chia tài sản chung khi ly hôn (căn cứ vào công sức đóng góp, hoàn cảnh gia đình, tình trạng tài sản, sản xuất và nghề nghiệp của vợ chồng …);

Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó. Luật bổ sung quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn, nghĩa là, trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

– Pháp luật ghi nhận việc ly hôn không làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con của mình mà chỉ thừa nhận sự thay đổi phương thức thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với con. Người không trực tiếp nuôi con chưa thành niên phải cấp dưỡng nuôi con, tiếp tục thực hiện các quyền đại diện, chắm sóc, giáo dục con phù hợp với hoàn cảnh hai vợ chồng không sống chung. Người trực tiếp nuôi con phải tạo điều kiện cho người không trực tiếp nuôi con thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với con.

4. Công nhận và bảo vệ quyền được làm cha, làm mẹ và làm con

Quyền được làm cha, làm mẹ và làm con vừa là quyền tự nhiên và là quyền pháp lý của công dân. Pháp luật Việt Nam công nhận và bảo vệ quyền này thông qua hai căn cứ phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ và nuôi con nuôi:

a) Đối với việc thực tế quyền làm cha, làm mẹ và làm con thông qua sự kiện sinh đẻ, pháp luật không phân biệt việc sinh con và được thừa nhận là con trong điều kiện cha mẹ không có hôn nhân hay không có hôn nhân hợp pháp. Trong trường hợp người phụ nữ đơn thân muốn thực hiện quyền làm mẹ của mình pháp luật tạo điều kiện cho chị được thực hiện quyền này bằng sinh con theo phương pháp khoa học. Đối với đôi vợ chồng không thể sinh con tự nhiên pháp luật cũng cũng tạo điều kiện quyền được sinh con theo phương pháp khoa học.  

Xác định cha, mẹ, con: Về nguyên tắc, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.

Xác định con: Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình.

Quyền nhận cha, mẹ: Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết. Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha.

Quyền nhận con: Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.  Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người kia.

Trong trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết.

Việc xác định cha, mẹ trong trường hợp bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản:

+ Người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định về xác định con chung của vợ chồng;

+ Trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra;

+ Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra;

+ Con sinh ra trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.

Quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: Trong thực tiễn xã hội, mang thai hộ và nhu cầu về mang thai hộ là có thật. Với những người vợ vì bệnh lý mà không thể mang thai và sinh nở được thì mang thai hộ là một giải pháp được nhiều cặp vợ chồng lựa chọn giúp họ có được con. Có hai nhóm người nếu muốn có con chỉ còn cách duy nhất là mang thai hộ. Một là, những phụ nữ có tử cung không bình thường (tử cung bị dị dạng, tử cung bị bệnh lý như u xơ hay bệnh về nội mạc, do tai biến sản khoa trước đó phải cắt bỏ tử cung). Hai là, những người có tử cung bình thường nhưng sức khỏe không cho phép để mang thai (ở nước ta gặp nhiều nhất là người mắc bệnh tim).

Quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chính thức có hiệu lực thực thi từ ngày 15/3. Đến nay, gần 1 tháng quy định này có hiệu lực nhưng số người nộp hồ sơ đăng ký nhờ mang thai hộ tại 3 trung tâm được phép triển khai kỹ thuật gồm: Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Từ Dũ TP HCM) đã lên đến hàng trăm, nhưng số hồ sơ thông qua chưa được 10 cặp. Để có được bộ hồ sơ này, các cặp vợ chồng hiếm muộn phải mất từ 6 tháng tới 1 năm. Đó chỉ là mới tính riêng thời gian lo hồ sơ ở “vòng ngoài”, chưa kể lúc bắt đầu làm việc tại bệnh viện. Hiện nay, đã có 02 ca mang thai hộ thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh.

 Quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định rất chặt chẽ: Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Vợ chồng nhờ mang thai hộ, người mang thai hộ và trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ được được tư vấn về y tế, pháp lý và tâm lý; được bảo đảm an toàn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: (i) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; (ii) Vợ chồng đang không có con chung; (iii) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây: (i) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; (ii) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; (iii) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; (iiii) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; (iiiii) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.    

b) Bên cạnh xác lập quan hệ cha mẹ và con dựa trên sự kiện sinh đẻ, pháp luật cũng tạo điều kiện và khuyến khích công dân thực hiện quyền làm cha, làm mẹ và con thông qua nuôi con nuôi. Quyền nuôi con nuôi là quyền mang tính chất vừa nhân đạo, vừa pháp lý đáp ứng được nhu cầu chính đáng của cả bên có nhu cầu làm cha, làm mẹ (đặc biệt đối với người vô sinh, người đơn thân, người già yếu, cô đơn không nơi nương tựa) và bên cần được làm con (đặc biệt đối với người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự).

5. Công nhận và bảo vệ các quyền nhân thân và tài sản giữa cha mẹ và con, các thành viên khác trong gia đình

– Pháp luật ghi nhận nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các con (con trai – con gái, con nuôi – con đẻ, con trưởng – con thứ, con thừa tự hay con không thừa tự) khi tiếp nhận quyền và thực hiện nghĩa vụ đối với cha mẹ;

– Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ hợp pháp hay không hợp pháp. Trong mọi trường hợp quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là không thay đổi vì yếu tố hôn nhân của cha mẹ, nhưng phương thức thực hiện quyền và nghĩa vụ có thể có sự khác biệt cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể trong quan hệ cha mẹ và con, quan hệ giữa cha mẹ với nhau (quyền thăm nom, cấp dưỡng…);

– Con được hưởng các lợi ích nhân thân từ cha mẹ: họ, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch. Tuy nhiên, con có quyền thay đổi họ từ cha sang mẹ hoặc ngược lại, con có thể mang họ của cha, mẹ nuôi khi họ làm con nuôi, con cũng có thể không theo quốc tịch, tôn giáo của cha, mẹ;

– Con có quyền được cha mẹ chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng (hoặc cấp dưỡng) khi chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. Con đã thành niên đồng thời cũng có nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu, cô đơn, không còn sức lao động, không có thu nhập, tài sản để tự nuôi mình;

– Con có quyền sở hữu riêng độc lập với tài sản của cha mẹ đối tài sản do lao động mà có, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, tài sản khác theo qui định của pháp luật…Con từ 15 tuổi trở lên có quyền quản lý tài sản của mình hoặc ủy quyền cho cha mẹ, người khác quản lý. Mặt khác, con từ đủ 15 tuổi trở lên đã tham gia lao động, có thu nhập và sống cùng gia đình thì có nghĩa vụ đóng góp vào chi tiêu chung của gia đình;

– Cha mẹ và con bình đẳng trong thừa kế và thừa kế di sản của nhau. Họ có quyền để lại di sản và tự quyết định theo ý chí của mình về định đoạt di sản. Họ cũng có quyền hưởng thừa kế di sản của nhau theo pháp luật hoặc theo di chúc. Nếu hưởng thừa kế theo pháp luật họ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nhau. Nếu họ lập di chúc không cho cha mẹ hoặc con của mình được hưởng thừa kế thì người bị truất quyền là cha mẹ, con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động vẫn có thể được hưởng 2/3 suất theo luật (nếu di sản được chia theo pháp luật), trừ khi họ thuộc diện pháp luật tước quyền thừa kế hoặc chính họ từ chối nhận di sản.

– Quyền và nghĩa vụ giữa anh, chị, em ruột, ông bà nội, ông bà ngoại, cháu nội, cháu ngoại, cô chú bác ruột và cháu ruột được pháp luật công nhận và bảo vệ trong quan hệ giám hộ và thừa kế theo nguyên tắc thay thế khi cha mẹ và con không còn hoặc không có đủ điều kiện để tiếp nhận quyền và thực hiện nghĩa vụ cho nhau.

6. Công nhận và bảo vệ quyền được an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của các thành viên trong gia đình

Quyền được an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín là một trong những quyền tự nhiên và pháp lý cơ bản nhất của công dân. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi của các thành viên trong gia đình xâm phạm đến về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Do đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình mang tinh gắn bó tình cảm, phụ thuộc giữa các thế hệ, sự tác đông của định kiến xã hội về vai trò của nam giới, phụ nữ trong gia đình, về vai trò giữa thế hệ trên (cha mẹ, ông bà, anh chị, cô chú bác…) với thế hệ dưới (con cháu, em…) mà có những hành vi xâm phạm đến nhau được mặc nhiên như quyền đối với nhau và người bị thiệt hại phải chấp nhận. Để phòng ngừa và xử lý các hành vi bạo lực trong gia đình Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến vấn đề này: Hiến pháp năm 1992 (trước đó là các Hiến pháp 1946, 1959, 1980), Bộ luật dân sự năm 2005 (trước đó là Bộ luật dân sự năm 1995), Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (trước đó là Luật hôn nhân và gia đình các năm 1959 và 1986), Bộ luật hình sự năm 1999 (trước đó là các Bộ luật hình sự năm 1985 và các bộ luật hình sự sửa đổi), pháp luật về xử phạt hành chính, Luật bình đẳng giới năm 2006 và đặc biệt Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007… đều trực tiếp hoặc gián tiếp đã qui đình quyền được bảo vệ an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của các thành viên trong gia đình và xử lý các hành vi vi phạm.

Theo đó, các hành vi sau đây được xác định là hành vi bạo lực gia đình:

– Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

– Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

– Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;

– Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

– Cưỡng ép quan hệ tình dục;

– Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;

– Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;

– Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;

– Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

Người có hành vi bạo lực trong gia đình sẽ bị xử lý hành chính, hình sự hoặc bồi thường thiệt hại tùy theo tính chất, mức độ vi phạm. Người là nạn nhân của bạo lực gia đình được pháp luật bảo vệ theo nhiều biện pháp và ngăn chặn khác nhau thông qua trách nhiệm và hoạt động của gia đình, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội, đảm bảo cho họ không tiếp tục là nạn nhân của những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín trong gia đình.

III. Vài nét khái quát về hiện trạng công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người trong hôn nhân và gia đình ở Việt Nam và một số khuyến nghị

1. Vài nét khái quát về hiện trạng công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người trong hôn nhân và gia đình ở Việt Nam

Không thể phủ nhận Việt Nam là một trong những quốc gia tôn trọng và tích cực thực hiện nhất về công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau việc công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người còn nhiều bất cập cần được khắc phục:

* Thứ nhất, Việt Nam vẫn là một trong các nước nghèo và là đất nước nông nghiệp, do vậy sự khó khăn về kinh tế xã hội và sự tồn tại những định kiến xã hội đãcó những ảnh hưởng không nhỏ đến công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình. Ví dụ: phụ nữ Việt Nam được công nhận quyền con người một cách đầy đủ trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, nhưng trong cuộc sống dưới áp lực của định kiến xã hội vẫn buộc họ phải lựa chọn giữa lợi ích gia đình và lợi ích cá nhân họ trong sự phát triển nghề nghiệp, học vấn, kinh tế… Sự lựa chọn lợi ích gia đình đến thời điểm này vẫn được coi là dễ chấp nhận trong đại đa số cộng đồng…;

* Thứ hai, hệ thống qui phạm pháp luật của Việt Nam về quyền con người trong hôn nhân và gia đình đã có nhưng phần nhiều mới dừng lại ở nguyên tắc rất khó thực thi trong tình huống cụ thể xuất phát từ cuộc sống. Ví dụ: Pháp luật thừa nhận quyền làm mẹ của phụ nữ đơn thân qua sinh con theo phương pháp khoa học, nhưng không cho phép họ khởi kiện người đàn ông đã hỗ trợ quyền làm mẹ của họ là cha của con mình và giữa người đàn ông đó với con mà người phụ nữ đơn thân sinh ra không có quan hệ cha mẹ và con. Qui định này nhằm mục đích tạo cơ hội nhiều hơn cho phụ nữ đơn thân thực hiện quyền làm mẹ của mình. Tuy nhiên, nó sẽ phát sinh mâu thuẫn về quyền của trẻ em được biết cha, mẹ mình là ai? Và các quan hệ huyết thống, tập quán giữa người đàn ông cho con và con của ông ta với con của người phụ nữ đơn thân sinh con….;

* Thứ ba, do quan niệm truyền thống về hành vi ứng xử trong gia đình nên việc các thành viên trong gia đình xâm phạm đến quyền của nhau ít được quan tâm phát hiện và xử lý hơn giữa những chủ thể không có quan hệ hôn nhân và gia đình. Nhận thức phổ biến trong xã hội là chấp nhận hoặc bỏ qua hành vi cha mẹ áp đặt cho con, chồng cho vợ… Mặt khác các hành vi xâm phạm quyền về hôn nhân và gia đình thường được thành viên, thậm chí che giấu vì sợ người ngoài biết ảnh hưởng đến uy tín của gia đình, dòng họ hoặc người sống phụ thuộc dễ chấp nhận hành vi áp đặt của các thành viên có khả năng chí phối do quan hệ gia trưởng, bề trên với bề dưới, phụ thuộc về kinh tế….

Thực tế đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm gia tăng mức độ, hình thức và tính chất của các hành vi vi phạm quyền con người về hôn nhân và gia đình. Theo Tờ trình Dự án Luật Phòng, chống bạo lực gia đình của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội khóa XII “trên toàn quốc cứ khoảng 2-3 ngày có 1 người bị giết có liên quan đến bạo lực gia đình. Báo cáo của một số cơ sở y tế cho thấy một tỷ lệ khá lớn bệnh nhân là nạn nhân của bạo lực gia đình….  tại 42 tỉnh trong 5 năm (2000-2005) tòa án nhân dân tỉnh đã xét xử 10.608 vụ án hôn nhân và gia đình, trong đó 42% vụ án ly hôn có nguyên nhân từ bạo lực gia đình.”.

* Thứ tư, công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến về quyền con người trong hôn nhân và gia đình còn chưa linh hoạt, đa dạng và hiệu quả. Sự hiểu biết của xã hội nói chung, từng người dân, từng thành viên gia đình nói riêng về quyền con người trong hôn nhân và gia đình còn nhiều hạn chế trong nhận thức và hành vi. Do đó, pháp luật đã thừa nhận quyền tự thân người dân, thành viên không gia đình không tự nhận biết được đó là quyền hoặc họ không xác định được một cách đúng cái họ đang thực hiện là đang xâm phạm đến quyền con người trong hôn nhân và gia đình. Ví dụ: Pháp luật qui định con có quyền sở hữu riêng đối với những tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng… Tuy nhiên, khi con còn nhỏ, nhiều cha mẹ hầu như không biết quyền này của con mà họ chủ động chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản con có được do được thừa kế riêng, tặng cho riêng… cái mà đáng lẽ họ có trách nhiệm quản lý và giao lại cho con khi con đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi …

* Thứ năm, hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình còn chưa cao ở một số lĩnh vực, một số cơ quan nhất định. Ví dụ: ly hôn là quyền tự do cá nhân của vợ chồng, nhưng cơ chế tố tụng và thủ tục giải quyết ly hôn ở Việt Nam hiện nay còn rất nhiều yếu tố hạn chế đến quyền này của vợ chồng. Việc ly hôn cần thông qua hòa giải là cần thiết, nhưng chỉ có hòa giải tại tòa án mới là bắt buộc còn hòa giải ở cơ sở chỉ mang tính chất tự nguyện. Trên thực tế, nhiều tòa ở địa phương lại chỉ thụ lý đơn sau khi đã có xác nhận qua hòa giải ở cơ sở và đây là một thực tế tác động rất lớn đến quyền ly hôn của vợ chồng….

2. Một số giải pháp

* Thứ nhất, cụ thể hóa hơn nữa các qui định pháp luật hiện hành về quyền con người trong hôn nhân và gia đình theo hướng thực tế hơn có tính áp dụng đúng với thực tế hơn. Đặc biệt các quyền về sở hữu, quyền làm mẹ, làm cha, làm con, quyền khai sinh, quyền kết hôn với người nước ngoài, quyền về quốc tịch của con có cha mẹ là người không có quốc tịch, mang quốc tịch nước khác hoặc nhiều quốc tịch, xử lý hành vi phạm và bảo vệ nạn nhân của hành vi xâm phạm quyền …

* Thứ hai, cần phải nâng cao vị thế kinh tế và vai trò xã hội của các thành viên gia đình dễ bị tác động bởi định kiến xã hội phụ nữ, con… để họ độc lập hơn trong xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền cho mình;

* Thứ ba, xác định rõ trách nhiệm công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình là trách nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị, cơ quan Nhà nước và nhân viên của hệ thống chính trị, cơ quan Nhà nước mà không phải riêng thành tố tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước nào. Trong đó, phải xác định rõ cơ quan Nhà nước đóng vai trò quản lý, thực thi, tổ chức, phối hợp thực hiện quyền con người về hôn nhân và gia đình;

* Thứ tư, cần tạo ra cơ chế linh hoạt, đa dạng hơn nữa trong công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình. Bên cạnh cơ chế chính thức (hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức có thẩm quyền) cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các thiết chế không chính thức công nhận, thực thi và bảo vệ quyền con người về hôn nhân và gia đình (gia đình, dòng họ, chức sắc tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, dịch vụ, tư vấn hỗ trợ pháp lý…);

* Thứ năm, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến về quyền con người nói chung, quyền con người về hôn nhân và gia đình nói riêng theo hướng thiết thực, chiến lược và hiệu quả hơn. Đặc biệt phải đưa môn học về quyền con người, trong đó có quyền con người về hôn nhân và gia đình vào chương trình đòa tạo bắt buộc của hệ thống các trường chuyên nghiệp trở lên và là nội dung bắt buộc trong môn giáo dục công dân ở phổ thông.

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày