Tìm kiếm tin tức

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
MỘT SỐ Ý KIẾN GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT PHÒNG THỦ DÂN SỰ
Ngày cập nhật 22/06/2022

Trong những năm qua, công tác phòng thủ dân sự luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo thực hiện. Thể chế về công tác phòng thủ dân sự từng bước được hoàn thiện với việc ban hành một số đạo luật về ứng phó, khắc phục sự cố trong từng lĩnh vực, như: Luật Phòng, chống thiên tai; Luật Đê điều; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm; Luật Phòng cháy, chữa cháy; Luật Năng lượng nguyên tử; Luật Bảo vệ môi trường; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 

Tổ chức hoạt động ứng phó sự cố, thảm họa và tìm kiếm cứu nạn cũng cơ bản được hoàn thiện; lực lượng ứng phó sự cố, thảm họa và tìm kiếm cứu nạn đã từng bước được củng cố; năng lực ứng phó sự cố, thảm họa và tìm kiếm cứu nạn đã được củng cố và phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đáp ứng được một phần quan trọng về công tác phòng thủ dân sự.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động phòng thủ dân sự thời gian qua cũng tồn tại một số hạn chế, như: Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện; một số cơ chế, chính sách chưa sát với thực tế, thiếu tính khả thi, chưa đáp ứng được với yêu cầu công tác phòng thủ dân sự.

 Công tác quy hoạch chưa theo kịp yêu cầu phát triển; công tác dự báo, cảnh báo mặc dù có nhiều bước tiến, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, có lúc thiếu chính xác, không kịp thời, nhất là các loại hình thảm họa như lũ quét, sạt lở đất… nên gặp nhiều khó khăn trong chỉ đạo phòng chống và chuẩn bị lực lượng, phương tiện ứng phó.

Hệ thống kết nối dự báo, cảnh báo, thông báo, báo động thông tin phòng thủ dân sự chưa đáp ứng được yêu cầu. Kết cấu hạ tầng một số công trình chưa gắn kết chặt chẽ với công trình, thiết bị phòng thủ dân sự. …

Để khắc phục các hạn chế, bất cập nêu trên đặt ra yêu cầu phải xây dựng một đạo luật về phòng thủ dân sự, nhằm tăng cường các biện pháp phòng ngừa và bảo đảm tính chủ động trong công tác phòng, chống thảm họa do thiên tai, dịch bệnh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố; bảo vệ cho người dân, cơ quan, tổ chức, kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường….

Đồng thời, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ nới Hiến pháp năm 2013 và nâng cao hiệu quả pháp lý của hệ thống pháp luật về phòng thủ dân sự; nâng cao năng lực về phòng thủ dân sự, góp phần làm giảm thiểu thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh hoặc sự cố, thảm họa gây ra; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước gắn với củng cố quốc phòng, an ninh và từng bước hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Những hạn chế, bất cập nêu trên đặt ra yêu cầu phải xây dựng một đạo luật về phòng thủ dân sự là cần thiết.

Sau đây là một số ý kiến góp ý vào dự thảo Luật Phòng thủ dân sự:

1. Tại Khoản 3 Điều 2 của dự thảo quy định về giải thích từ ngữ, theo đó quy định giải thích “Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước, bao gồm các biện pháp phòng ngừa, khắc phục hậu quả thảm họa do chiến tranh; phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh do thiên nhiên hoặc con người gây ra, bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nền kinh tế quốc dân, môi trường, bảo vệ các giá trị vật chất và văn hóa trên lãnh thổ Việt Nam.”.

Tuy nhiên tại Khoản 1 Điều 13 Luật Quốc phòng quy định 1. Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng, chống chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân.”.

Nhất trí nội dung quy định tại Khoản 3 Điều 2 của dự thảo Luật, tuy nhiên kiến nghị Ban soạn thảo rà soát lại quy định nội dung để quy định bãi bỏ Khoản 1 Điều 13 Luật Quốc phòng vào dự thảo Luật Phòng thủ dân sự để tránh quy định chồng chéo nhau, đảm bảo thống nhất thực hiện.

  1. Tại Điều 12 dự thảo Luật:

- Tại điểm a Khoản 1, đề nghị lượt bỏ cụm từ “phòng ngừa thảm họa, sự cố”, viết lại thành “Kế hoạch được xây dựng theo chu kỳ 05 năm và được điều chỉnh hằng năm”.

- Tại các tiêu đề của các khoản 1, 2, 3 của dự thảo quy định chưa thống nhất nhau (Khoản 1: Nguyên tắc xây dựng Kế hoạch; Khoản 2. Nội dung Kế hoạch phòng thủ dân sự; Khoản 3. Xây dựng Kế hoạch quốc gia phòng thủ dân sự). Đề nghị quy định thống nhất tiêu đề các khoản của điều.

- Tại Khoản 4, qua nghiên cứu Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương nhận thấy không giao thẩm quyền cho HĐND cấp tỉnh phê duyệt Kế hoạch phòng thủ dân sự tỉnh và quq nghiên cứu Nghị định số 02/2019/NĐ-CP ngày 02/01/2019 của Chính phủ về phòng thủ dân sự, theo đó tại khoản 5 Điều 5 Nghị định số 02/2019/NĐ-CP quy định “5. Kế hoạch phòng thủ dân sự cấp tỉnh và các cơ quan, đơn vị trực thuộc cấp tỉnh

a) Căn cứ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược quốc gia phòng thủ dân sự, kế hoạch phòng thủ đất nước và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; kế hoạch phòng thủ dân sự quốc gia, Cơ quan quân sự cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch phòng thủ dân sự cấp tỉnh, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký gửi Bộ Quốc phòng thẩm định; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;

b) Căn cứ kế hoạch phòng thủ dân sự cấp tỉnh, kế hoạch phòng thủ dân sự của Bộ, ngành trung ương, các cơ quan, đơn vị trực thuộc cấp tỉnh xây dựng kế hoạch phòng thủ dân sự của cơ quan, đơn vị, gửi cơ quan quân sự cấp tỉnh thẩm định; trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt”.

Do vậy, đề nghị về thẩm quyền phê duyệt phê duyệt Kế hoạch phòng thủ dân sự tỉnh, đề nghị Ban soạn thảo quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt Kế hoạch.

3. Tại Khoản 3 Điều 17, quy định về diễn tập phòng thủ dân sự tại các bộ, ngành, địa phương. Theo đó, quy định bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị tổ chức diễn tâp phòng thủ dân sự 01 lần/05 năm:

Đối với quy định này, kiến nghị cần xem xét chia theo cấp độ thảm họa, sự cố để quy định số lượng hoạt động tổ chức diễn tập phòng thủ dân sự nhằm đảm bảo tính sẳn sàng, chủ động và hiệu quả trong công tác phòng, chống thảm họa, sự cố. Hạn chế việc bị động, lúng túng hoặc hậu quả tiêu cực trong ứng khó, khắc phục thảm họa, sự cố gây ra....

Ví dụ thảm họa hoặc sự cố cấp độ 1, 2 được tổ chức diễn tập 02 năm một lần; thảm họa, sụ cố cấp độ 3 diễn tập 03 năm/lần; cấp độ 4 diễn tập 05 năm/lần...

4. Tại Điểm a Khoản 1 Điều 29 quy định: Các lực lượng cứu hộ, cứu nạn.

- Nội dung này đề nghị ghi rõ cụ thể gồm những lực lượng nào, tránh chồng chéo theo quy định tại Điểm b, c, d, đ.

- Nếu tại Điểm a không nêu rõ lực lượng thì đề nghị bổ sung nội dung tại Điểm c Khoản 1 Điều 29 kiến nghị bổ sung thêm lực lượng kiểm lâm, chỉnh sửa như sau “Cán bộ, nhân viên các cơ quan bảo vệ môi trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn, lực lượng kiểm lâm”.

5. Tại Điểm b Khoản 1 Điều 31 dự thảo quy định: “Áp dụng các biện pháp phong tỏa, hạn chế tụ tập đông người”.

Đề nghị không quy định cụm từ “hạn chế” mà nên quy định thành từ “cấm”, nội dung này đề nghị chỉnh sửa như sau: “Áp dụng các biện pháp phong tỏa, cấm tụ tập đông người”.

Vì khi đã công bố tình trạng khẩn cấp, mọi hoạt động của địa phương được giao cho một tổ chức nhất định điều hành, việc tụ tập đông người có thể ảnh hưởng đến hoạt động của các đơn vị đang thực hiện nhiệm vụ, do đó thay thế cụm từ “hạn chế” bằng từ “cấm” là phù hợp với tình hình ở thời điểm hiện tại.

6. Tại điểm b, c Khoản 4 Điều 12 dự thảo, đề nghị bổ sung quy định cụ thể như sau để xác định rõ ràng cơ quan có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch phòng thủ dân sự:

“b) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch phòng thủ dân sự của tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt;

c) Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xây dựng kế hoạch phòng thủ dân sự của huyện, xã trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt.”

7. Tại Khoản 1 Điều 32 dự thảo luật quy định “Trong địa bàn có tình trạng khẩn cấp khi có dịch bệnh nguy hiểm, ngoài các biện pháp quy định tại Điều 37 của Luật này, có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp sau đây:”

Kiến nghị ban soạn thảo xem lại việc viện dẫn quy định tại Điều 37 của luật, vì Điều 37 quy định phương án giải quyết hoàn trả, bồi thường phương tiện, tài sản đã trưng dụng sau khi tình trạng khẩn cấp được bãi bỏ.

8. Ngoài ra, kiến nghị ban soạn thảo nghiên cíu bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm của các cấp địa phương trong xử lý các sự cố xảy ra trên diện rộng; bổ sung nguồn lực …

9. Về kỹ thuật trình bày thứ tự các điểm trong dự thảo:

- Tại Khoản 3 Điều 26; Khoản 1 Điều 31; Khoản 1 Điều 32 quy định thứ tự các điểm bằng chữ cái “f” là không phù hợp. Do đó kiến nghị rà soát để chỉnh lý các điều, khoản, điểm phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Khoản 1 Điều 36 Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 quy định: “Điều cuối cùng của luật, nghị quyết của Quốc hội và thông tin về thời điểm Quốc hội thông qua văn bản được phân cách bằng đường kẻ ngang liền từ lề trái đến lề phải.”, do đó, tại phần kết thúc của dự thảo Luật, kiến nghị cơ quan soạn thảo trình bày đảm bảo theo quy định này.

Hy vọng rằng, những ý kiến góp ý vào dự thảo Luật sẽ được Ban soạn thảo nghiên cứu, tiếp tục hoàn chỉnh để khi Luật ban hành sẽ dễ thực hiện và đạt hiệu quả cao.

 

Thủy Phương
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 18.230.538
Lượt truy cập hiện tại 4.912