Tìm kiếm tin tức

Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Có thể thực hiện “Ký nối” trong chuyển nhượng xe ô tô?
Ngày cập nhật 22/09/2021

“Ký nối” là từ gọi tắt, chỉ sự mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu xe ô tô khi chưa thực hiện thủ tục sang tên trên giấy đăng ký xe; nói cách khác, khi chủ sở hữu xe ô tô (người thứ nhất) bán xe cho người thứ hai, hai bên ký kết hợp đồng công chứng, người thứ hai bán tiếp cho người thứ ba, lúc này người thứ ba mới làm thủ tục sang tên trên giấy đăng ký xe. Vậy việc thực hiện chuyển nhượng xe ô tô trong trường hợp “ký nối” có căn cứ pháp lý không?

 

1. Quy định về thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với hợp đồng, giao dịch mua bán ô tô

Điều 161 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản:

“1. Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.

Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.

2. Trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Như vậy, thời điểm xác lập quyền sở hữu là thời điểm tài sản được chuyển giao nếu pháp luật liên quan không quy định khác và các bên không có thỏa thuận. Và từ thời điểm xác lập quyền sở hữu, người sở hữu có các quyền của người sở hữu theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 về quyền sở hữu: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”. Nghĩa là, ngang giai đoạn tài sản được chuyển giao, người mua đã có quyền chuyển nhượng lại tài sản.

2. Xe ô tô có phải là tài sản bắt buộc phải đăng ký không?

Theo quy định tại khoản 3 Điều 53 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định một trong những điều kiện tham gia giao thông của xe cơ giới là Xe cơ giới phải đăng ký và gắn biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp”.

Như vậy, xe ô tô muốn lưu hành, tham gia giao thông thì buộc phải đăng ký. Trường hợp không đăng ký thì bị xử phạt theo quy định tại điểm l khoản 7 và khoản 15 Điều 30 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Cụ thể, chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng, các loại xe tương tự xe ô tô. Ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: buộc phải làm thủ tục đăng ký xe, đăng ký sang tên, đổi lại, thu hồi Giấy đăng ký xe, biển số xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định (trừ trường hợp bị tịch thu phương tiện).

Đặc biệt, theo quy định tại khoản 10 Điều 80 Nghị định 100/2019/NĐ-CP về thủ tục xử phạt đối với chủ phương tiện, người điều khiển phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ, đường sắt, thì việc xác minh để phát hiện hành vi vi phạm nêu trên chỉ được thực hiện thông qua công tác điều tra, giải quyết vụ tai nạn giao thông; qua công tác đăng ký xe.

Như vậy, có thề nhận định rằng, quy định về đăng ký xe không phải là điều kiện để có quyền sở hữu xe ô tô (quyền sở hữu xe ô tô có thời điểm nhận chuyển giao xe theo quy định tại 161 Bộ luật Dân sự năm 2015 (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác)). Đăng ký xe là một trong những điều kiện để chủ phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

3. Quy định về đăng ký sang tên xe ô tô

- Nếu như trước đây, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 10 Thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 04/4/2014 của Bộ Công an về đăng ký xe quy định một trong những chứng từ chuyển quyền sở hữu xe là “g) Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng xe theo quy định của pháp luật về chứng thực.”. Đồng thời, khoản 3 Điều 6 Thông tư số 15/2014/TT-BCA nêu rõ “3. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm chứng  từ chuyển quyền sở hữu xe, tổ chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe phải đến cơ quan đăng ký xe làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe.”.

Với quy định trên và khi cơ quan chức năng “thắt chặt” vấn đề xử phạt xe tham gia giao thông “không chính chủ”, nghĩa là xe chưa được sang tên trên giấy đăng ký xe thì có nhiều trường hợp xe đã qua nhiều lần mua bán hoặc mua bán đã lâu, không có giấy tờ, rất khó cho việc làm thủ tục đăng ký sang tên.

Để giải quyết vấn đề trên, Thông tư số 58/2020/TT-BCA ngày 16 tháng 6 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quy trình cấp, thu hồi đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, có hiệu  lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2020 và thay thế Thông tư số 15/2014/TT-BCA và Thông tư số 64/2017/TT-BCA ngày 28/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 15/2014/TT-BCA, tại Điều 19 quy định về giải quyết đăng ký sang tên xe đối với trường hợp xe đã chuyển quyền sở hữu qua nhiều người như sau:

“1. Thủ tục, hồ sơ sang tên: Người đang sử dụng xe đến cơ quan quản lý hồ sơ đăng ký xe để làm thủ tục sang tên, xuất trình giấy tờ theo quy định tại Điều 9 Thông tư này, ghi rõ quá trình mua bán, giao nhận xe hợp pháp, cam kết về nguồn gốc xuất xứ của xe và nộp giấy tờ sau:

a) Giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Thông tư này;

b) Giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe của người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe và giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe của người bán cuối cùng (nếu có).

2. Thủ tục, hồ sơ đăng ký sang tên: Người đang sử dụng xe liên hệ với cơ quan đăng ký xe nơi cư trú: xuất trình giấy tờ theo quy định tại Điều 9 Thông tư này và nộp giấy tờ sau:

a) Giấy khai đăng ký xe (theo mẫu số 01);

b) Chứng từ lệ phí trước bạ theo quy định;

c) Giấy chứng nhận thu hồi đăng ký, biển số xe (đối với trường hợp khác tỉnh và mô tô khác điểm đăng ký xe).

3. Trách nhiệm của cơ quan đăng ký xe

a) Trường hợp người đang sử dụng xe có giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe của người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe và giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe của người bán cuối cùng: Trong thời hạn hai ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý hồ sơ xe giải quyết đăng ký, cấp biển số (đối với ô tô sang tên trong cùng tỉnh và mô tô cùng điểm đăng ký xe) hoặc cấp Giấy chứng nhận thu hồi đăng ký, biển số xe cho người đang sử dụng xe để làm thủ tục đăng ký, cấp biển số tại nơi cư trú;

b) Trường hợp người đang sử dụng xe không có giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe: Cơ quan quản lý hồ sơ xe cấp giấy hẹn có giá trị được sử dụng xe trong thời gian 30 ngày; gửi thông báo cho người đứng tên trong đăng ký xe, niêm yết công khai trên trang thông tin điện tử của Cục Cảnh sát giao thông và tại trụ sở cơ quan; tra cứu tàng thư xe mất cắp và dữ liệu đăng ký xe ngay sau khi tiếp nhận hồ sơ sang tên. Sau 30 ngày nếu không tranh chấp, khiếu kiện, cơ quan quản lý hồ sơ xe phải giải quyết đăng ký, cấp biển số (đối với ô tô sang tên trong cùng tỉnh và mô tô cùng điểm đăng ký xe) hoặc cấp Giấy chứng nhận thu hồi đăng ký, biển số xe cho người đang sử dụng xe để làm thủ tục đăng ký, cấp biển số tại nơi cư trú.

4. Trách nhiệm của người đang sử dụng xe:

a) Trực tiếp đến cơ quan đăng ký xe làm thủ tục sang tên;

b) Kê khai cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về nguồn gốc xuất xứ của xe, quá trình mua bán, giao nhận xe;

c) Khai và nộp lệ phí trước bạ theo quy định của pháp luật.

5. Trách nhiệm của các đơn vị quản lý cơ sở dữ liệu xe mất cắp, xe vật chứng: Ngay sau khi tiếp nhận văn bản của cơ quan đăng ký xe đề nghị xác minh, đơn vị quản lý cơ sở dữ liệu xe mất cắp, xe vật chứng trả lời bằng văn bản cho cơ quan đăng ký xe”.

Khoản 3 Điều 26 Thông tư số 58/2020/TT-BCA về hiệu lực thi hành đã nêu rõ “Xe đã chuyển quyền sở hữu qua nhiều người nhưng thiếu hoặc không có giấy tờ chuyển quyền sở hữu được giải quyết đăng ký, sang tên theo quy định tại Điều 19 Thông tư này đến hết ngày 31/12/2021”.

Như vậy, với quy định của Điều 19 Thông tư số 58/2020/TT-BCA giúp “gỡ vướng” đối với những trường hợp mua bán xe nhưng chưa sang tên từ trước đó và thiếu hoặc không có giấy tờ chuyển quyền sở hữu, bảo đảm thuận lợi cho việc sang tên của chủ sở hữu, góp phần quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông được chặt chẽ, đồng bộ.  

Tóm lại, dù việc “ký nối” hợp đồng mua bán xe ô tô là có căn cứ pháp lý theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2018, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 nhưng về bản chất là chưa phù hợp với tinh thần của pháp luật. Xét cho cùng, xe ô tô là phương tiện giao thông, dù thế nào thì chủ xe cũng phải sử dụng để tham gia giao thông nên không thể có việc “ký nối” qua nhiều người, mà cần phải thực hiện đúng quy định về đăng ký sang tên khi tham gia vào hợp đồng, giao dịch mua bán xe ô tô./.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 18.260.821
Lượt truy cập hiện tại 17.707