Tìm kiếm tin tức
Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Giải đáp tình huống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Ngày cập nhật 22/02/2022

1. Công ty TNHH A.T hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua, nhận thấy hoạt động môi giới lao động có nhiều tiềm năng hơn nên Công ty A.T đã có hành vi giả mạo Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm để thu hút người lao động có nhu cầu. Sự việc bị cơ quan chức năng phát hiện và xác định hậu quả chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy trường hợp này, Công ty TNHH A.T có bị xử phạt vi phạm hành chính không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Khoản 5 Điều 7 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về dịch vụ việc làm như sau:

“5. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với doanh nghiệp dịch vụ việc làm có một trong các hành vi sau đây:

a) Cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép;

b) Sửa chữa, làm sai lệch văn bản, tài liệu trong hồ sơ đề nghị cấp, gia hạn hoặc cấp lại Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

c) Sửa chữa, làm sai lệch nội dung Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm đã được cấp nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

d) Giả mạo văn bản, tài liệu trong hồ sơ đề nghị cấp, gia hạn hoặc cấp lại Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

đ) Giả mạo Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

e) Không đảm bảo một trong các điều kiện cấp giấy phép theo quy định của pháp luật.”

Ngoài ra, đối với hành vi Giả mạo Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự áp dụng thêm hình thức xử phạt bổ sung như sau:

“7. Hình thức xử phạt bổ sung

Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm giả mạo đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm đ khoản 5, khoản 6 Điều này.”

Như vậy, đối với hành vi giả mạo Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công ty TNHH T.A sẽ bị phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Đồng thời áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu Giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm giả mạo.

 

2. Ông Nguyễn Vân là chủ cơ sở sản xuất đồ gia dụng. Để sản xuất đủ số lượng theo yêu cầu của thị trường, ông đã tuyển thêm 20 nhân công trong độ tuổi từ 30-35 để phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, khi đại diện nhóm nhân công đề nghị ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản thì ông Văn từ chối với lý do công việc mùa vụ trong 5 tháng nên chỉ cần lập hợp đồng bằng lời nói. Trường hợp này, hành vi của ông Văn có phù hợp với quy định pháp luật không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Điều 9 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về giao kết hợp đồng lao động như sau:

1. Phạt tiền đối với người sử dụng lao động khi có một trong các hành vi: giao kết hợp đồng lao động không bằng văn bản với người lao động làm công việc có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên; giao kết hợp đồng lao động không bằng văn bản với người được ủy quyền giao kết hợp đồng cho nhóm người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên làm công việc theo mùa vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng quy định tại khoản 2 Điều 18 của Bộ luật Lao động; giao kết không đúng loại hợp đồng lao động với người lao động; giao kết hợp đồng lao động không đầy đủ các nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật theo một trong các mức sau đây:

a) Từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c) Từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d) Từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ) Từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.”

Căn cứ quy định nêu trên, ông Vân đã có hành vi giao kết hợp đồng lao động không bằng văn bản với người được ủy quyền giao kết hợp đồng cho nhóm người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên làm công việc theo mùa vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng quy định tại khoản 2 Điều 18 của Bộ luật Lao động, do đó ông Vân sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động. Đồng thời áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc ông Vân giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động cho nhóm 20 người lao động làm công việc theo mùa vụ.

 

3. Chị Hà nộp hồ sơ xin việc vào vị trí kế toán tại doanh nghiệp K và được yêu cầu thử việc trong thời gian 02 tháng. Tuy nhiên, kết thúc thời gian thử việc, doanh nghiệp tiếp tục yêu cầu chị Hà thử việc lần 2 do thời gian thử việc chưa đạt yêu cầu. Chị Hà muốn biết yêu cầu của doanh nghiệp có phù hợp với quy định pháp luật không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Điều 10 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về thử việc như sau:

“1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Yêu cầu thử việc đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng;

b) Không thông báo kết quả thử việc cho người lao động theo quy định.

2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Yêu cầu người lao động thử việc quá 01 lần đối với một công việc;

b) Thử việc quá thời gian quy định;

c) Trả lương cho người lao động trong thời gian thử việc thấp hơn 85% mức lương của công việc đó;

d) Không giao kết hợp đồng lao động với người lao động khi thử việc đạt yêu cầu đối với trường hợp hai bên có giao kết hợp đồng thử việc.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả

a) Buộc người sử dụng lao động trả đủ tiền lương của công việc đó cho người lao động khi có hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 1, điểm a, b, c khoản 2 Điều này;

b) Buộc người sử dụng lao động giao kết hợp đồng lao động với người lao động khi có hành vi vi phạm quy định tại điểm d khoản 2 Điều này.”

Căn cứ quy định nêu trên, doanh nghiệp K đã có hành vi yêu cầu người lao động thử việc quá 01 lần đối với một công việc. Do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân nên doanh nghiệp K sẽ bị xử phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Đồng thời áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả phải trả đủ tiền lương của công việc đó cho chị Hà.

 

4. Anh Tuấn ký kết hợp đồng lao động thời hạn 10 năm với Công ty C. Tuy nhiên khi mới thực hiện hợp đồng được 4 năm, anh Tuấn được tuyển chọn thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ và tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động với Công ty C. Sau khi kết thúc thời gian nghĩa vụ, anh Tuấn quay lại làm việc nhưng Công ty từ chối tiếp nhận dù trước đó Công ty đã đồng ý tạm hoãn hợp đồng lao động và không có thỏa thuận gì khác. Anh Tuấn muốn biết hành vi của Công ty C có vi phạm quy định pháp luật không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về thực hiện hợp đồng lao động như sau:

“2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Bố trí người lao động làm việc ở địa điểm khác với địa điểm làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật Lao động;

b) Không nhận lại người lao động trở lại làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động nếu hợp đồng lao động còn thời hạn, trừ trường hợp người sử dụng lao động và người lao động có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác;

c) Chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động không đúng lý do; thời hạn hoặc không có văn bản đồng ý của người lao động theo quy định của pháp luật.”

Trường hợp này, Công ty C đã có hành vi không nhận lại người lao động trở lại làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động (dù hợp đồng lao động còn thời hạn) đồng thời trước đó Công ty và anh Tuấn không có thỏa thuận khác, vì vậy, Công ty C sẽ bị phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 14.000.000 đồng (do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân). Đồng thời áp dụng quy định tại điểm b Khoản 5, Công ty C. phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả nhận lại người lao động trở lại làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động và buộc trả lương cho người lao động trong những ngày không nhận người lao động trở lại làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.

 

5. Do tình hình dịch bệnh ảnh hưởng tới doanh thu, Công ty Z đã quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với một số nhân công. Công ty đã thanh toán đủ lương cho 30 nhân công bị chấm dứt hợp đồng nhưng không trả tiền trợ cấp thôi việc dù tất cả đều thỏa mãn các điều kiện để được nhận trợ cấp thôi việc theo quy định. Đại diện của các nhân công muốn biết quyết định của Công ty có đúng quy định pháp luật không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm về sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động như sau:

“Phạt tiền đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi: Sửa đổi thời hạn của hợp đồng bằng phụ lục hợp đồng lao động; không thực hiện đúng quy định về thời hạn thanh toán các khoản về quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động; không trả hoặc trả không đủ tiền trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền trợ cấp mất việc làm cho người lao động theo quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền cho người lao động theo quy định của pháp luật khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; không hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác đã giữ của người lao động sau khi chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật; không cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu cầu sau khi chấm dứt hợp đồng lao động theo một trong các mức sau đây:

a) Từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b) Từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d) Từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ) Từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.”

Căn cứ quy định nêu trên, hành vi không trả đủ tiền trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định của pháp luật của Công ty Z là hành vi vi phạm pháp luật và mức phạt tiền tương ứng từ 4.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng (do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân). Đồng thời áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc Công ty Z trả đủ tiền trợ cấp thôi việc cho người lao động cộng với khoản tiền lãi của số tiền chưa trả tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt đối với hành vi không trả tiền trợ cấp thôi việc.

 

6. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng cao, ông Tiến (chủ cơ sở sản xuất đồ mỹ nghệ) đã tổ chức dạy nghề để nâng cao kỹ năng cho 12 lao động mới tuyển tại xưởng. Sau khi kết thúc lớp dạy nghề, ông Tiến thông báo các lao động phải trả cho ông một khoản tiền phí đào tạo dạy nghề. Trường hợp này, việc thu phí đào tạo dạy nghề của ông Tiến có phù hợp với quy định pháp luật không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Khoản 1 Điều 14 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề như sau:

“Phạt tiền đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi: không đào tạo cho người lao động trước khi chuyển người lao động sang làm nghề khác cho mình; hợp đồng đào tạo nghề không có các nội dung chủ yếu theo quy định tại khoản 2 Điều 62 của Bộ luật Lao động; thu học phí của người học nghề, tập nghề để làm việc cho mình; không ký hợp đồng đào tạo với người học nghề, tập nghề để làm việc cho mình đối với trường hợp người sử dụng lao động không phải đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 61 của Bộ luật Lao động; không trả lương cho người học nghề, tập nghề trong thời gian họ học nghề, tập nghề mà trực tiếp hoặc tham gia lao động; không ký kết hợp đồng lao động đối với người học nghề, người tập nghề khi hết thời hạn học nghề, tập nghề và đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Lao động theo một trong các mức sau đây:

a) Từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b) Từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d) Từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ) Từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.

Căn cứ quy định nêu trên, việc thu phí đào tạo dạy nghề đối với các lao động để phục vụ sản xuất cho xưởng của ông Tiến là chưa đúng quy định và sẽ bị xử phạt tiền với mức từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Đồng thời áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc ông Tiến trả lại học phí đã thu của người học nghề để làm việc cho ông.

 

7. Anh Lâm kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ giải trí, cơ sở của anh có 20 lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn. Trong dịp tết Nguyên đán vừa qua, do lượng khách tăng cao nên anh yêu cầu 100% lao động làm thêm giờ nhưng không trả thêm tiền lương làm thêm giờ. Trường hợp này, hành vi của anh Lâm có bị xử lý theo quy định pháp luật không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về tiền lương như sau:

2. Phạt tiền đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi: Trả lương không đúng hạn theo quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền lương cho người lao động theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm thêm giờ; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm việc vào ban đêm; không trả hoặc trả không đủ tiền lương ngừng việc cho người lao động theo quy định của pháp luật; hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động; ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định; khấu trừ tiền lương của người lao động không đúng quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền lương theo quy định cho người lao động khi tạm thời chuyển người lao động sang làm công việc khác so với hợp đồng lao động hoặc trong thời gian đình công; không trả hoặc trả không đủ tiền lương của người lao động trong những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm khi người lao động thôi việc, bị mất việc làm; không tạm ứng hoặc tạm ứng không đủ tiền lương cho người lao động trong thời gian bị tạm đình chỉ công việc theo quy định của pháp luật; không trả đủ tiền lương cho người lao động cho thời gian bị tạm đình chỉ công việc trong trường hợp người lao động không bị xử lý kỷ luật lao động theo một trong các mức sau đây:

a) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b) Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c) Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d) Từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ) Từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.”

Căn cứ quy định nêu trên, do có hành vi không trả tiền lương làm thêm giờ cho lao động nên anh Lâm sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động. Đồng thời áp dung biện pháp khắc phục hậu quả buộc trả đủ tiền lương cộng với khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả, trả thiếu cho người lao động tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt đối với hành vi vi phạm.

 

8. Để kịp sản xuất đủ lượng hàng hóa cho đối tác, doanh nghiệp M đã yêu cầu toàn bộ 50 lao động làm thêm giờ. Tuy nhiên số giờ doanh nghiệp yêu cầu các lao động làm thêm vượt quá số giờ theo quy định pháp luật. Vậy, việc huy động người lao động làm thêm giờ vượt quá số giờ theo quy định của pháp luật sẽ bị xử lý như thế nào?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Khoản 4 Điều 18 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi như sau:

“4. Phạt tiền đối với người sử dụng lao động khi có một trong các hành vi: không đảm bảo cho người lao động nghỉ trong giờ làm việc hoặc nghỉ chuyển ca theo quy định của pháp luật; huy động người lao động làm thêm giờ vượt quá số giờ theo quy định của pháp luật theo một trong các mức sau đây:

a) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b) Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c) Từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d) Từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ) Từ 60.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.”

Đối chiếu quy định nêu trên, hành vi huy động người lao động làm thêm giờ vượt quá số giờ theo quy định của doanh nghiệp M là hành vi vi phạm quy định pháp luật; do đó, với số lượng 50 lao động, doanh nghiệp M sẽ bị xử phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng (do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân).

 

9. Do có hành vi trộm cắp tại nơi làm việc nên anh Khoa bị Công ty C. xử lý kỷ luật lao động. Tuy nhiên, thay vì áp dụng các hình thức kỷ luật theo quy định, Công ty đã kỷ luật anh bằng hình thức cắt lương hai tháng với mục đích răn đe và chấn chỉnh hành vi của các lao động trong công ty về sau. Trường hợp này, hành vi của Công ty sẽ bị xử lý như thế nào?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất như sau:

“3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động khi có một trong các hành vi sau đây:

a) Xâm phạm sức khỏe, danh dự, tính mạng, uy tín hoặc nhân phẩm của người lao động khi xử lý kỷ luật lao động nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

b) Dùng hình thức phạt tiền hoặc cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động;

c) Xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng lao động đã giao kết hoặc pháp luật về lao động không quy định;

d) Áp dụng nhiều hình thức kỷ luật lao động đối với một hành vi vi phạm kỷ luật lao động;

đ) Xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian sau đây: nghỉ ốm đau; nghỉ điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động; đang bị tạm giữ; đang bị tạm giam; đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra, xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 125 của Bộ luật Lao động.”

Căn cứ quy định nêu trên, hành vi cắt lương hai tháng của ông Hanh để xử lý kỷ luật lao động đối với anh Khoa là hành vi vi phạm quy định pháp luật và mức phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng (do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân). Ngoài ra, Công ty phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả buộc trả đủ tiền lương hai tháng cho anh Khoa.

 

10. Công ty K hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật liệu dễ cháy. Tuy nhiên đến nay một số nhà xưởng của Công ty hiện vẫn chưa được trang cấp các thiết bị an toàn cho công nhân và một số thiết bị đảm bảo vệ sinh lao động. Vậy, trường hợp này, Công ty K có bị xử lý theo quy định của pháp luật hay không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo): Điều 21 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về các biện pháp đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động như sau:

“3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Không định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng theo quy định;

b) Không trang bị các thiết bị an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc theo quy định;

c) Không xây dựng, ban hành kế hoạch xử lý sự cố hoặc ứng cứu khẩn cấp tại nơi làm việc;

d) Không lập phương án về các biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động đối với nơi làm việc của người lao động khi xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo các công trình, cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ các loại máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động;

đ) Không điều tra tai nạn lao động thuộc trách nhiệm theo quy định của pháp luật; không khai báo hoặc khai báo không kịp thời hoặc khai báo sai sự thật về tai nạn lao động; không khai báo hoặc khai báo không kịp thời hoặc khai báo sai sự thật sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng;

e) Không bảo đảm đủ buồng tắm, buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc theo quy định của pháp luật;

g) Không trang bị phương tiện kỹ thuật, y tế để đảm bảo ứng cứu, sơ cứu kịp thời khi xảy ra sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng hoặc gây tai nạn lao động.”

Như vậy, việc không trang bị các thiết bị an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc theo quy định của Công ty K là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân).

 

11. Doanh nghiệp S hoạt động trong lĩnh vực hóa mỹ phẩm và có một số khu vực làm việc yêu cầu phải có phương tiện bảo hộ cá nhân. Tuy nhiên, để tiết kiệm chi phí sản xuất, doanh nghiệp đã cắt giảm tiền bằng cách không trang cấp phương tiện bảo vệ cá nhân cho 15 lao động tại các khu vực này. Trường hợp này, hành vi của anh Lâm có bị xử lý theo quy định pháp luật không?

Trả lời (chỉ mang tính chất tham khảo):

Khoản 8 Điều 22 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:

“Phạt tiền đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi: Không trang cấp hoặc trang cấp không đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân hoặc có trang cấp nhưng không đạt chất lượng theo quy định; không thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật hoặc bồi dưỡng bằng hiện vật thấp hơn mức theo quy định; trả tiền thay cho bồi dưỡng bằng hiện vật cho người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại theo một trong các mức sau đây:

a) Từ 3.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b) Từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c) Từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d) Từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ) Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm từ 301 người lao động trở lên.”

Như vậy, doanh nghiệp S đã có hành vi không trang cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân cho 15 lao động của mình. Do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân nên doanh nghiệp S sẽ bị xử phạt với mức tiền từ 12.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

 

12. Chị Ngọc không may bị tai nạn lao động trong quá trình sản xuất, do đó chị phải tạm nghỉ việc 1 năm để điều trị. Tuy nhiên, bà Nga, chủ cơ sở sản xuất nơi chị Ngọc làm việc đã từ chối trả tiền bồi thường cho chị Ngọc với lý do chị Ngọc đã được hưởng bảo hiểm xã hội. Hành vi của bà Nga có bị xử lý theo quy định của pháp luật hay không?

Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:

“Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng khi vi phạm đối với mỗi người lao động nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Không kịp thời sơ cứu hoặc cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động;

b) Không thanh toán phần chi phí đồng chi trả hoặc những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tham gia bảo hiểm y tế;

c) Không tạm ứng chi phí sơ cứu, chi phí cấp cứu hoặc không thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp không tham gia bảo hiểm y tế;

d) Không giới thiệu người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa, xác định mức độ suy giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng phục hồi chức năng lao động theo quy định của pháp luật;

đ) Không trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật;

e) Không thực hiện hoặc thực hiện không đủ hoặc thực hiện không đúng thời hạn việc bồi thường hoặc chế độ trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.”

Căn cứ quy định nêu trên, việc bà Nga không thực hiện việc bồi thường cho người chị Nga bị tai nạn lao động là hành vi vi phạm quy định của pháp luật và sẽ bị xử phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng. Đồng thời bà Nga phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả  buộc trả cho chị Nga số tiền bồi thường, cộng với khoản tiền lãi của số tiền đó tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt.

 

13. Chị Vân ký hợp đồng lao động với thời hạn 10 năm với doanh nghiệp N. Tuy nhiên, khi biết chị Vân sắp được nghỉ thai sản, doanh nghiệp N. đã quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị vì lý do việc nghỉ thai sản ảnh hưởng tới năng suất lao động của doanh nghiệp. Trường hợp này, hành vi của doanh nghiệp sẽ bị xử lý như thế nào?

Khoản 2 Điều 28 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới như sau:

“ Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Sử dụng người lao động mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo làm thêm giờ hoặc làm việc ban đêm hoặc đi công tác xa;

b) Sử dụng người lao động đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi làm thêm giờ hoặc làm việc ban đêm hoặc đi công tác xa, trừ trường hợp được người lao động đồng ý;

c) Không thực hiện việc chuyển công việc hoặc giảm giờ làm đối với lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai mà người lao động đã thông báo với người sử dụng lao động biết theo quy định tại khoản 2 Điều 137 của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác;

d) Không cho lao động nữ nghỉ 30 phút mỗi ngày trong thời gian hành kinh trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác;

đ) Không cho lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi nghỉ 60 phút mỗi ngày trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác;

e) Không bảo đảm việc làm cho người lao động theo quy định tại Điều 140 của Bộ luật Lao động;

g) Không ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới đối với trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi;

h) Xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ đang trong thời gian mang thai hoặc nghỉ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;

i) Sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

k) Không cung cấp đầy đủ thông tin về tính chất nguy hiểm, nguy cơ, yêu cầu của công việc để người lao động lựa chọn và không đảm bảo điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động theo quy định khi sử dụng họ làm công việc thuộc danh mục nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con;

l) Không lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc khi sử dụng từ 1.000 người lao động nữ trở lên.”

Như vậy, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do nghỉ thai sản của doanh nghiệp N là vi phạm quy định pháp luật và sẽ bị xử phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng (do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân), đồng thời áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc doanh nghiệp nhận chị Vân trở lại làm việc.

 

14. Công ty L thông báo tuyển dụng công nhân làm việc ca đêm tại nhà xưởng, tuy nhiên do mức lương khá thấp nên không tuyển được lao động. Để giải quyết tình trạng thiếu lao động, công ty đã về các vùng quê để tuyển lao động trẻ em trong khoảng từ 12 đến 14 tuổi làm việc ca đêm. Trường hợp này, hành vi của Công ty L có bị xử lý theo quy định pháp luật không?

Khoản 2 Điều 29 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với các hành vi vi phạm quy định về lao động chưa thành niên như sau:

“Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Sử dụng lao động chưa thành niên mà chưa có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên đó;

b) Sử dụng người chưa đủ 15 tuổi làm việc mà: giao kết hợp đồng lao động không bằng văn bản với người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó; bố trí thời giờ làm việc ảnh hưởng đến thời gian học tập của người chưa đủ 15 tuổi; không có giấy khám sức khỏe của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền xác nhận sức khỏe của người chưa đủ 15 tuổi phù hợp với công việc; không tổ chức kiểm tra sức khỏe định kỳ ít nhất 01 lần trong 06 tháng hoặc không bảo đảm điều kiện làm việc, an toàn, vệ sinh lao động phù hợp với lứa tuổi;

c) Sử dụng lao động chưa thành niên làm việc quá thời giờ làm việc quy định tại Điều 146 của Bộ luật Lao động;

d) Sử dụng người chưa đủ 15 tuổi làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm;

đ) Sử dụng người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi làm thêm giờ hoặc làm việc vào ban đêm trong những nghề, công việc không được pháp luật cho phép.”

Như vậy, việc sử dụng người chưa đủ 15 tuổi làm việc vào ban đêm là vi phạm quy định pháp luật, do đó Công ty L sẽ bị xử phạt tiền với mức từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (do mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân).

 

Tập tin đính kèm:
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 23.367.186
Lượt truy cập hiện tại 3.734