Tìm kiếm tin tức
Đơn vị hỗ trợ
Liên kết website
Chính phủ
Các Bộ, Ngành ở TW
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh
Sở, Ban, Ngành
Tin mới - Tin đọc nhiều
Tin mới
Tin nổi bật
Tin mới
Ngày 06 tháng 12 năm 2024, Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế đã thực hiện thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Công ty luật trách nhiệm hữu hạn...
Thực hiện Chương trình công tác năm 2024 và Kế hoạch số 2500/KH-STP ngày 08/10/2024 của Sở Tư pháp, ngày 21/11/2024, Sở Tư pháp tổ chức Hội nghị...
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 23.367.942
Lượt truy cập hiện tại 22.053
Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Ngày cập nhật 08/05/2023

Căn cứ để áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Văn bản này bị vô hiệu trong các trường hợp theo quy định.  

 

1. Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu

Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

(1) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;

Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định (theo quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì Thỏa thuận phải bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực).

(2) Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình, đó là trường hợp nội dung Thỏa thuận không bảo đảm các yêu cầu: Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng; giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng.

(3) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.

Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13, quy định thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu một phần. Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng. Trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị tuyên bố vô hiệu một phần thì các nội dung không bị vô hiệu vẫn được áp dụng; đối với phần nội dung bị vô hiệu thì các quy định tương ứng về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng.

Tòa án quyết định tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình và lưu ý một số trường hợp sau đây:

- Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm quyền được bảo đảm chỗ ở của vợ, chồng quy định tại Điều 31 và điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó cho phép một bên được quyền định đoạt nhà ở là nơi ở duy nhất của vợ chồng dẫn đến vợ, chồng không có chỗ ở hoặc không bảo đảm chỗ ở tối thiểu về diện tích, điều kiện sinh hoạt, an toàn, vệ sinh môi trường theo quy định của pháp luật về nhà ở.

- Nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình là trường hợp thỏa thuận đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định từ Điều 110 đến Điều 115 của Luật hôn nhân và gia đình hoặc để tước bỏ quyền thừa kế của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình đã được Luật hôn nhân và gia đình và pháp luật khác có liên quan quy định.

Theo quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì cơ quan, tổ chức, cá nhân sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật hôn nhân và gia đình: a) Vợ, chồng hoặc vợ chồng đã thỏa thuận về chế độ tài sản; b) Người bị xâm phạm, người giám hộ của người bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp do có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.

2. Một số vấn đề trao đổi liên quan đến Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu

- Theo quy định tại điểm a khoản1 Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 117 Bộ luật Dân sự thì Văn bản thỏa thuận bị vô hiệu nếu không bảo đảm yêu cầu về chủ thể tham gia giao dịch dân sự.

Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định điều kiện kết hôn:

“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”.

Liên quan đến thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng, Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ quy định thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn mà không quy định cụ thể điều kiện đối với chủ thể, nhất là về độ tuổi tham gia xác lập văn bản thỏa thuận và trường hợp chủ thể bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

 - Điểm c khoản1 Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định Thỏa thuận bị vô hiệu khi nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình. Tuy nhiên, tại Điều 48 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình về nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản lại không đề cập đến yêu cầu phải bảo đảm nội dung nêu trên, mặc dù tại khoản 2 Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã có xác định Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải phù hợp với quy định tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình, nếu vi phạm, người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận vô hiệu. Điều này thể hiện sự thiếu tương thích giữa quy định về điều kiện nội dung của văn bản và quy định về văn bản bị vô hiệu do nội dung không bảo đảm quy định.

Từ những vấn đề phân tích ở trên, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng./.

Các tin khác
Xem tin theo ngày