Trao đổi về vấn đề tài sản chung của vợ chồng trong hộ gia đình sử dụng đất
Ngày cập nhật 07/04/2023

Hộ gia đình được xác định là người sử dụng đất từ Luật Đất đai năm 1993, tiếp đến là Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 [1] (trước đó, Luật Đất đai đầu tiên của nước ta là Luật năm 1987 chưa đề cập cụ thể đến đối tượng sử dụng đất). Tuy nhiên, để giải thích thế nào là hộ gia đình thì đến Luật Đất đai năm 2013 mới có quy định. Từ các quy định liên quan, vấn đề mang tính thực tiễn qua áp dụng pháp luật vẫn chưa được thống nhất là trường hợp thành viên hộ gia đình được xác định chỉ có người chồng/vợ thì người vợ/chồng (không có tên trong hộ gia đình) có quyền sử dụng đất chung trong hộ gia đình không?

 


[1] Điều 1 Luật Đất đai năm 1993 nêu: “...Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trong Luật này gọi chung là người sử dụng đất”.

Khoản 2 Điều 9 Luật Đất đai năm 2003: “Hộ gia đình, cá nhân trong nước (sau đây gọi chung là hộ gia đình, cá nhân) được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất là người sử đụng đất”.

 

1. Phân tích các quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định tại các Quyết định, Thông tư quy định chi tiết theo Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm2013

- Điểm c khoản 2 Điều 3 Quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được ban hành kèm theo Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định tên người sử dụng đất được ghi như sau: “Người sử dụng đất là hộ gia đình thì ghi "Hộ ông" (hoặc "Hộ bà"), sau đó ghi họ, tên, năm sinh của chủ hộ gia đình, số sổ hộ khẩu, ngày cấp sổ hộ khẩu, địa chỉ nơi đăng ký thường trú của hộ gia đình”.

Với quy định này, chưa thể hiện rõ trường hợp vợ/chồng không sống chung với hộ gia đình, nghĩa là không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì có được xác định là thành viên hộ gia đình sử dụng đất không?.

- Khoản 3 Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT ngày 13 tháng 4 năm 2005 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định về việc ghi tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Việc ghi tên người sử dụng đất lên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Điều 43 của Nghị định 181 đối với đất thuộc quyền sử dụng chung được thực hiện như sau:

3.1. Trường hợp hộ gia đình được Nhà nước giao đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất, giao đất ở có thu tiền sử dụng đất mà các thành viên của hộ gia đình đã được ghi trên quyết định giao đất thì tại Mục I (Tên người sử dụng đất) trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi “Hộ” và ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng; trường hợp người sử dụng đất đề nghị chỉ ghi họ, tên vợ hoặc họ, tên chồng thì phải có văn bản thoả thuận của vợ và chồng có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

3.2.  ....

3.3. Trường hợp hộ gia đình nhận chuyển quyền sử dụng đất mà quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình bao gồm các thành viên và đã được ghi đầy đủ trong các giấy tờ về nhận chuyển quyền sử dụng đất thì tại Mục I trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi họ, tên chủ hộ hoặc ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng mà một trong hai người là chủ hộ hoặc ghi họ, tên người đại diện của hộ gia đình; họ, tên người được ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải có văn bản thoả thuận của các thành viên của hộ gia đình có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

Quy định trên thể hiện rõ: Nếu vợ chồng đều có quyền sử dụng đất chung thì phải ghi tên cả vợ và chồng, trừ trường hợp hợp có đề nghị chỉ ghi tên một người thì phải có văn bản thoả thuận của vợ và chồng có chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Từ quy định này, có thể suy ra trường hợp vợ/chồng không có tên trong hộ gia đình thì không được xác định là thành viên hộ gia đình sử dụng đất?

- Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT ngày 21/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (thay thế Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT), điểm c khoản 2 Điều 3 Quy định ban hành kèm theo Quyết định trên quy định tên người sử dụng đất được ghi như sau: “c) Trường hợp hộ gia đình được Nhà nước giao đất nông nghiệp hoặc được công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp thì ghi “Hộ ông” (hoặc “Hộ bà”), sau đó ghi họ, tên, năm sinh và số, ngày cấp, nơi cấp giấy chứng minh nhân dân, địa chỉ nơi đăng ký thường trú của người đại diện hộ gia đình và của người vợ (hoặc chồng) người đại diện đó; nếu hộ gia đình đề nghị chỉ ghi họ, tên vợ hoặc chỉ ghi họ, tên chồng thì phải có văn bản thoả thuận của hai vợ chồng có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi hộ đó đăng ký thường trú hoặc có chứng nhận của công chứng nhà nước; nếu người đại diện hộ gia đình không có vợ (hoặc chồng) hoặc có nhưng vợ (hoặc chồng) của người đại diện hộ gia đình không có quyền sử dụng đối với diện tích đất chung của hộ gia đình thì chỉ ghi họ, tên, năm sinh và số, ngày cấp, nơi cấp giấy chứng minh nhân dân, địa chỉ nơi đăng ký thường trú của người đại diện.

....”

Theo các quy định này, trường hợp vợ/chồng không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì không được xác định là thành viên hộ gia đình sử dụng đất.

- Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (thay thế Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT, có hiệu lực từ ngày 10/12/2009), tại điểm c khoản 1 Điều 4 về ghi thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận theo quy định sau: “c) Hộ gia đình thì ghi “Hộ ông” (hoặc “Hộ bà”), sau đó ghi họ tên, năm sinh, số giấy chứng minh nhân dân (nếu có) của người đại diện hộ gia đình (là thành viên của hộ gia đình và cùng có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình) theo quy định của pháp luật dân sự”.

 Điều 106 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”.

Với quy định này, nếu vợ/chồng không có mặt trong hộ gia đình thì rõ ràng không thể cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung nên không được xác định là thành viên hộ gia đình sử dụng đất.

- Điểm c khoản 1 Điều 5 Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (điểm này được sửa đổi theo khoản 5 Điều 6 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; sau đó, quy định trên vẫn còn hiệu lực theo quy định tại Thông tư số 53/2017/TT-BTNMT ngày 04/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định ngưng hiệu lực thi hành khoản 5 Điều 6 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT) quy định ghi thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận theo quy định sau: “c) Hộ gia đình sử dụng đất thì ghi “Hộ ông” (hoặc “Hộ bà”), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số của giấy tờ nhân thân của chủ hộ gia đình như quy định tại Điểm a Khoản này; địa chỉ thường trú của hộ gia đình. Trường hợp chủ hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì ghi người đại diện là thành viên khác của hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình.

Trường hợp chủ hộ gia đình hay người đại diện khác của hộ gia đình có vợ hoặc chồng cùng có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì ghi cả họ tên, năm sinh của người vợ hoặc chồng đó”.

Quy định trên thể hiện rõ: Nếu vợ chồng đều có quyền sử dụng đất chung thì phải ghi tên cả vợ và chồng.

- Khoản 29 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”.

Theo khái niệm này, hộ gia đình sử dụng đất phải đáp ứng các yêu cầu: (1) Là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. (2) Đang sống chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. (3) Có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Theo đó, nếu một người không cùng chung sống tại hộ gia đình thì không đáp ứng điều kiện thứ hai nêu trên, do đó, nếu người vợ/chồng không sống chung với hộ gia đình thì không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình.

2. Vấn đề trao đổi

Từ các quy định đã phân tích ở trên, không có nội dung nào quy định thể hiện quyền sử dụng đất của hộ gia đình có vợ/chồng thì đương nhiên người còn lại cũng có quyền sử dụng đất chung. Các quy định đểu thể hiện nếu vợ/chồng cùng có tên trong hộ gia đình, đều có quyền sử dụng đất chung thì phải ghi tên cả vợ và chồng trên Giấy chứng nhận. Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT và còn thể hiện rõ nếu vợ (hoặc chồng) của người đại diện hộ gia đình không có quyền sử dụng đối với diện tích đất chung của hộ gia đình thì chỉ ghi họ, tên của người đại diện.

  Một điểm cần lưu ý đối với các quy định liên quan đến ghi tên trên Giấy chứng nhận về việc ghi tên vợ/chồng là chỉ mới đề cập đến người đứng tên đại diện hộ gia đình mà không đề cập đến trường hợp các thành viên của hộ.

Qua phân tích các quy định, có thể nói rằng, nếu vợ/chồng không cùng chung sống với hộ thì không đương nhiên có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình. Tuy nhiên, chiếu theo quy định  của Luật Hôn nhân và gia đình về tài sản chung của vợ chồng thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng (khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Như vậy, nếu vợ/chồng có quyền sử dụng đất chung trong hộ gia đình trong thời kỳ hôn nhân thì đó cũng là tài sản chung của vợ chồng.

Theo quan điểm của tác giả, chiếu theo quy định về quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong pháp luật đất đai và quy định về tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật về hôn nhân và gia đình thì nếu người vợ/chồng không sống chung với hộ gia đình thì người này có quyền sử dụng đất cùng với người chồng/vợ của mình trong cùng một phần tài sản của người chồng/vợ trong khối tài sản chung của các thành viên hộ gia đình. Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận, trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần./.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày