Quyền định đoạt tài sản riêng của người chưa thành niên và một số vấn đề pháp lý
Ngày cập nhật 13/07/2022

Việc định đoạt tài sản riêng, tham gia giao dịch dân sự của người chưa thành niên là vấn đề pháp lý quan trọng cần được xác định đúng vì liên quan trực tiếp đến hiệu lực của hợp đồng, giao dịch dân sự. Bài viết phân tích các quy định liên quan đến vấn đề này và những vấn đề cần lưu ý khi áp dụng.

1. Việc tham gia giao dịch dân sự của người chưa thành niên
Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 về người chưa thành niên quy định: 
“1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.
2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.
Như vậy, các giai đoạn của người chưa thành niên được xác định là: Dưới 6 tuổi, từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Tương ứng với từng giai đoạn, người chưa thành niên có quyền tham gia giao dịch dân sự trong phạm vi cho phép và phạm vi này được mở rộng dần theo độ tuổi.
2. Về quyền định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên
Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự:
“1. Trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
2. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.
3. Trong trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì việc định đoạt tài sản riêng của con do người giám hộ thực hiện”.
3. Người đại diện, người giám hộ cho người chưa thành niên và phạm vi đại diện
a) Người đại diện, người giám hộ cho người chưa thành niên trong giao dịch dân sự
Theo quy định Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự của người dưới 18 tuổi do phải do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện hoặc được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc định đoạt tài sản riêng của con dưới 18 tuổi do cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng quyết định hoặc phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.
Khoản 1 Điều 73 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật.
Khoản 1, 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định đại diện theo pháp luật của cá nhân là: “1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định”.
Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ, được xác định theo thứ tự sau đây: (1) Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ. (2) Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1  thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ. (3) Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
Khoản 2 Điều 55 và khoản 1 Điều 56 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi là “Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”; nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi là “Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Như vậy, người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên trong việc định đoạt tài sản riêng và tham gia các giao dịch dân sự, trước hết là cha, mẹ; trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ thuộc các trường hợp nêu trên thì là người giám hộ đương nhiên là người giám hộ thực hiện đại diện cho người chưa thành niên trong giao dịch dân sự theo quy định.
b) Phạm vi đại diện
Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây: Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; Điều lệ của pháp nhân; nội dung ủy quyền; quy định khác của pháp luật. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.
Điều 59 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quản lý tài sản của người được giám hộ. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ. Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
4. Hợp đồng, giao dịch đối với tài sản riêng của người chưa thành niên
Đối chiếu với các quy định của pháp luật nêu trên, hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản riêng của người chưa thành niên cần lưu ý một số vấn đề như sau:
- Cha, mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con. Con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con và phải được con ghi ý kiến đồng ý cho cha mẹ (hoặc người giám hộ) định đoạt vì lợi ích của con.
- Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì có quyền định đoạt tài sản riêng và phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.
- Trong mối quan hệ với người được đại diện và người được giám hộ, cần đặc biệt lưu ý:
+ Người đại diện không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
+ Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
+ Giao dịch dân sự đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ còn phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
5. Kiến nghị hoàn hiện một số quy định pháp luật liên quan
- Liên quan đến giao dịch dân sự của người dưới 15 tuổi: Khoản 3 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Khoản 1 Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Như vậy, tại hai điều luật có sự mâu thuẫn nhau, Bộ luật dân sự cho phép người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (và phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý); trong khi đó Luật Hôn nhân và gia đình thì quyền định đoạt là của cha mẹ hoặc người giám hộ vì lợi ích của con. Để thống nhất, kiến nghị xem xét điều chỉnh quy định tại Bộ luật dân sự trong trường hợp này phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình vì thực tế cho thấy, độ tuổi dưới 15 vẫn chưa đầy đủ nhận thức để tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
- Khoản 2 Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trường hợp con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ. Khoản 3 Điều 73 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định đối với giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ.
“Sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ” và “sự thỏa thuận của cha mẹ”, xét về mặt nội hàm có sự khác nhau. Sự đồng ý thể hiện ý chí của cha mẹ đối với sự định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện mọi măt vì lợi ích tốt nhất của con. Sự thỏa thuận thể hiện có sự trao đổi ngang bằng giữa các bên. Thiết nghĩ, cần có sự thống nhất về mặt từ ngữ theo hướng “sự thỏa thuận” thay bằng “sự đồng ý” để đảm bảo đầy đủ quyền lợi tốt nhất của người chưa thành niên trong định đoạt tài sản riêng.
- Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 về người chưa thành niên quy định người hỗ trợ, giúp người chưa thành niên trong thực hiện các giao dịch dân sự là “người đại diện”; Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì người hỗ trợ, giúp người chưa thành niên trong định đoạt tài sản riêng là “cha mẹ hoặc người giám hộ”. Mặc dù có sự khác nhau về từ ngữ nhưng giữa phạm vi “định đoạt” và “thực hiện giao dịch dân sự” có sự tương đồng và tiếp nối nhau, việc thực hiện giao dịch dân sự thể hiện ý chí định đoạt và ngược lại, để thực hiện ý chí định đoạt thì phải qua hành vi giao dịch dân sự. Vậy nên, để thuận lợi trong cách hiểu và áp dụng pháp luật, cần có sự điều chỉnh cụm từ “người đại diện” tại Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 thành “cha mẹ hoặc người giám hộ” để tương thích với Luật Hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy định khác về đại điện và giám hộ tại Bộ luật Dân sự./.
 
Các tin khác
Xem tin theo ngày